Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

NHƯ NHƯ(38)-ĂN THỊT TỨC LÀ ĂN NGƯỜI


"Thiên bách niên lai oản lý canh,
Oán thâm tự hải hận nan bình.
Dục tri thế thượng đao binh kiếp,
Thả thính đồ môn dạ bán thanh!"
Dịch là:

"Ngàn năm oán hận ngập bát canh,
Oán sâu như biển hận khó tan.
Muốn biết vì sao có chiến tranh,
Hãy nghe lò thịt, lúc nửa đêm!"
Từ xưa đến nay có rất nhiều người hy sinh thân mạng kẻ khác để lợi ích cho chính mình, cam tâm giết hại kẻ khác để bồi dưỡng cho bản thân mình. Thế nên miếng thịt ở trong tô canh chứa chất lòng oán hận thâm sâu như biển cả. Ðời này qua đời khác sát hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Tất cả chúng sinh đều ham sống, sợ chết, song con người vẫn dùng thủ đoạn áp bức để tàn sát những kẻ yếu kém hơn mình.
Trong tâm thức của những con thú trước khi chết đã kết tinh lòng oán hận rất lớn, chúng chỉ muốn tìm cách báo thù, không có cách gì để thoa dịu ý tưởng cừu hận này được. Các bạn muốn biết trên thế giới, nguồn gốc của chiến tranh từ đâu ra? Thí dụ như chiến tranh Việt Nam hay là hiện tại chiến tranh giữa Á Căn Ðình và Anh Quốc? Ðều là do nghiệp sát quá nặng, quá sâu, cho nên mới dùng phi cơ, đại pháo, thiết hạm, thủy lôi để hủy diệt nhau! Nếu ban đêm mình lắng nghe nơi nhà người đồ tể tiếng kêu la rên xiết của con heo, con bò hay con dê xin cứu mạng, thì mình sẽ biết được nguyên nhân của chiến tranh ở đâu mà ra. Có bài thơ rằng:

"Nhục" tự lý biên lưỡng cá nhân,
Lý biên trác trước ngoại biên nhân.
Chúng sanh hoàn thực chúng sanh nhục,
Tử tế tư lượng nhân thực nhân!"
Dịch là:

"Trong chữ "nhục"gồm có hai người,
Người ở trong dòm người ở ngoài,
Chúng sanh lại ăn thịt chúng sanh,
Suy nghĩ kỹ là người ăn người."

Tiếng Trung Hoa, chữ "nhục", nghiã là thịt, gồm có chữ "khẩu" tức là cái miệng mở ra, và hai chữ "nhân" tức là hai người: ở bên trong có một người và ở bên ngoài có một người. Người ở bên ngoài chờ người bên trong. Người ở ngoài muốn đi vô nhưng không vô được, người ở trong muốn chui ra ngoài nhưng ra không nổi là vì người bên ngoài đứng cản, không cho anh ta chạy thoát. Nên chữ "nhục" này chính là một kẻ ăn thịt và một kẻ bị ăn thịt. Kẻ ăn thịt thì ở bên ngoài, và là một con người. Kẻ bị ăn thịt thì ở bên trong và cũng là một con người, nhưng y đã biến thành súc sinh, lại còn bị chận không cho chạy ra, chạy lên cũng không được, chạy xuống cũng không xong, như là bị vây khốn, không chạy thoát được. Tuy là miệng mở khá rộng nhưng vì người bên ngoài đã chận, nên kẻ bên trong không thể chạy khỏi vòng vây.
Vòng vây này có thể là chuồng dê, chuồng heo, hay là chuồng bò, chuồng trâu. Người bị ăn thịt thì ở trong chuồng mà người ăn thịt thì ở bên ngoài chận không cho ra. Vì sao mà chận không cho anh ta ra? Là bởi vì muốn ăn thịt anh ta! Người bị ăn thịt và người ăn thịt có một mối quan hệ: đó chính là sự oán hận không thể nào hòa giải được!
Con người là chúng sinh, miếng thịt mình ăn cũng là chúng sinh. Hễ là động vật, là dê, là trâu, là gà, là ngựa, là chó, là heo v.v... đều là một loại chúng sinh cả. Nếu có kẻ nói rằng những thứ động vật này do trời sinh ra để người ăn, như vậy thì người sinh ra để ai ăn? Bởi vậy trời sinh động vật không nhất định là để cho người ăn, bất quá bởi vì con người ỷ mình trí óc cao minh nên mới ăn thịt động vật. Do đó, sự quan hệ ăn thịt này, nếu nghĩ cho kỹ thì chính là người ăn thịt người! Nếu nói rằng người ăn thịt người, thì thử hỏi xem kẻ bị ăn thịt, (tức là bây giờ đã biến thành dê, thành heo, thành ngựa v.v...) đối với mình có quan hệ như thế nào?
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói rằng: "Con dê trở lại biến làm người." Con dê mà có thể biến làm người thì tất cả động vật khác cũng có thể biến làm người, cũng như là mình cải đầu hoán diện, thay đổi bộ mặt thôi, mà mình không biết loài thú vật đó là ai. Các vị có biết chăng những thứ động vật dê, trâu, heo, gà,... đó không chừng đều là bà con quyến thuộc, là họ hàng thân thích của mình? Mối quan hệ đó, nói xa xôi như vậy, chớ nói gần hơn, thì chúng nó biết đâu chính là cha mẹ mình kiếp trước, hoặc là cha mẹ mình kiếp này, hay là cha mẹ không biết bao nhiêu kiếp về trước! Nghĩ như vậy, thì nếu ăn thịt cha mẹ, thì thật là bất hiếu. Cho nên nghĩ kỹ thì mới biết rằng ăn thịt động vật chính là người ăn thịt người vậy!
Người mà ăn thịt heo thì con heo có thể sẽ biến thành người. Khi heo thành người, nó lại ăn thịt heo do người kia biến thành. Nhân duyên cứ luân chuyển mãi, hỗ tương ăn thịt lẫn nhau: mình ăn nó, nó ăn mình. Do đó cừu hận càng ngày càng sâu; cừu hận càng sâu thì càng muốn ăn thịt; tánh thích ăn đồ ngon là do oan nghiệp dẫn dắt, làm mình cảm thấy hợp lý khi giết sinh mạng của kẻ khác để bổ trợ cho sinh mạng của chính mình!
Nếu các vị không tin thì tôi kể cho nghe một chuyện có thật như vầy: Vào thời vua Lương Võ Ðế thì Phật Giáo hết sức hưng thạnh. Lúc bấy giờ có một vị tên là Chí Công, là một người đã giác ngộ rồi (Minh Nhãn Thiện Tri Thức). Ngài có thể biết được tiền nhân hậu quả mọi sự. Thời bấy giờ Phật Giáo đi tới chỗ các Thầy chỉ đi tụng niệm cho người đời. Gia đình nào có chuyện vui chuyện buồn gì cũng mời các Thầy tới tụng kinh kiết tường, tụng chú kiết tường. Có lần, một nhà giàu nọ làm đám cưới cho con gái nên mới mời ngài Chí Công tới để tụng kinh cầu phước. Bởi vì Phật Pháp không ra ngoài pháp thế gian, nên Tổ Sư cũng tùy thuận theo phong tục của người đời mà đáp ứng. Vừa đặt chân tới nhà, Ngài liếc nhìn và nói rằng: "Cổ quái! Cổ quái! Cháu lấy bà ngoại, Con gái ăn thịt mẹ, Con trai đập da bố, Heo, dê ngồi nơi ghế, Họ hàng nấu trong nồi, Chúng sanh lại tưng bừng, Ta thấy thật là khổ!
Ngài Chí Công nói: "Thật là 'cổ quái'!" Chuyện gì mà cổ quái? Ðó là cháu lấy bà ngoại của mình! Bởi vì khi đứa cháu vừa mới sinh thì bà ngoại nó bịnh. Lúc gần chết bà cầm tay thằng cháu này, nói rằng bà sợ không có ai lo lắng cho thằng nhỏ, tương lai ai là người giúp nó để thành gia lập nghiệp? Do vậy, lúc bà ngoại thở hơi cuối cùng thì tay vẫn nắm thằng cháu, quyến luyến không đành. Bà ngoại xuống âm phủ gặp vua Diêm La, mới khóc lóc cầu xin: "Diêm La Vương ơi! Xin Ngài ban cho tôi một việc: ỞƯ thế gian tôi có một đứa cháu nhỏ dại không ai săn sóc, xin Ngài cho tôi về lo cho nó được không? Vua Diêm La từ bi vô cùng, mới đáp lời thỉnh cầu, nói rằng: "Ðược, tốt lắm! Bà về lại trần gian săn sóc thằng nhỏ đi. Bà là bà ngoại của nó, bây giờ bà trở về làm vợ của nó, được chăng?"
Bà đó không thể làm chủ được nghiệp báo của mình cho nên đầu thai lên dương thế làm con gái. Ðứa con gái này lớn lên rồi lấy thằng cháu đó. Thật là cải đầu hoán diện, đổi mặt đổi mày mà thôi, như thử mặc bộ y phục mới không ai nhận biết được cả. Chỉ có Ngài Chí Công biết được chuyện đó, nên nói: "Cổ quái! Cổ quái! Cháu lấy bà ngoại."
Ngài Chí Công lại thấy đứa con gái nhỏ đang ăn miếng thịt heo nên nói rằng: "Con gái ăn thịt mẹ." Là vì mẹ đứa con gái này vốn làm đủ thứ ác nghiệp nặng nề nên chết rồi thì hóa kiếp làm heo; nay bị đồ tể giết, bị nấu làm món ăn ngon và bây giờ đứa con gái này ăn thịt mẹ của mình.
Khi Ngài thấy ở nơi sau vườn có đứa con trai đang cao hứng đập cái trống bằng da lừa, Ngài mới nói rằng: "Con trai đập da bố." Nghĩa là bố của thằng nhỏ này vì tạo nghiệp báo cho nên mới đầu thai làm con lừa, chết rồi bị người ta lột da làm trống; bây giờ đứa nhỏ này chẳng biết cha nó là miếng da làm thành trống, nên chỉ biết vui mừng thì đánh trống mà thôi.
Ngài Chí Công lại đi xuống nơi dãy ghế ngồi, nhìn qua thì thấy những kẻ ngồi đó toàn là trâu, bò, dê,... hồi xưa bị người ta ăn thịt, bây giờ biến thành người, làm bà con thân thuộc với nhau. Những loại thịt ở trong nồi đều là những bà con quyến thuộc của họ, nên ngài Chí Công nói rằng: "Quý vị tới đây tiệc tùng hết sức vui vẻ, hân hoan để chúc mừng ông chủ nhà làm đám cưới cho con. Sự thật, ta thấy thật là khổ! Người nào cũng ở trong luân hồi hỗ tương vay trả quả báo, tàn sát lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau; đó là nỗi khổ khó nói cho hết được."
Sau khi ngài Chí Công nói xong, có rất nhiều người hiểu, rồi phát tâm ăn chay, niệm Phật, tu hành.
Từ xưa đến nay nếu các vị không ăn thịt kẻ khác thì kẻ khác cũng không ăn thịt các vị. Có người nói: "Thầy nói thế nào đi nữa tôi cũng không tin." Nếu các vị không tin thì tôi cũng không có cách gì khác, cứ thí nghiệm thử xem sao!
HT Tuyên Hóa-Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 5 năm 1982

NHƯ NHƯ (36)-CON NGƯỜI CÓ CẦN TRỌN ĐẠO HIẾU HAY CHĂNG?


Hôm nay chúng ta hãy nghiên cứu vấn đề này: Con người vì sao cần phải hiếu thảo với cha mẹ? Cần hiếu thảo với cha mẹ hay không cần hiếu thảo với cha mẹ? Vấn đề có hai cách giải thích. Ðứng trên lập trường pháp xuất thế gian thì không cần thiết phải hiếu thảo với cha mẹ. Tôi tin rằng ai nghe tôi nói câu này cũng hết sức kinh ngạc, bởi vì từ xưa tới nay chưa hề nghe qua lời này. Mình vẫn biết, là người nào cũng cần phải hiếu thảo với cha mẹ, chưa hề nghe ai nói rằng không cần trọn đạo hiếu cả. Do đó bạn cảm thấy kinh ngạc. Nhưng nếu căn cứ vào chân lý thì mình có thể nói như vậy: Ðứng trên lập trường pháp thế gian đương nhiên chúng ta cần làm tròn chữ hiếu. Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởng là đạo lý của trời đất.
Nhưng nếu căn cứ vào pháp xuất thế mà nói chúng ta cần nỗ lực tu hành, dụng công học tập, phát đại tâm Bồ-đề thì đó là trọn vẹn đại hiếu, không phải là tiểu hiếu. Làm sao giải thích câu này? Bởi vì khi mình tu hành được thành công thì có thể siêu độ được bảy đời cha mẹ, khiến họ sanh lên cõi trời. Rằng: "Nhất tử thành Phật, cửu tổ thăng thiên." Nghĩa là khi một người con thành Phật thì chín đời tổ tiên được sanh lên trời. Ðó gọi là đại hiếu.
Ðạo hiếu có bốn thứ: một là đại hiếu, hai là tiểu hiếu, ba là viễn hiếu, bốn là cận hiếu. Thế nào là đại hiếu? Tức là báo đền ơn cha mẹ của mình trong nhiều đời về trước, báo đền ơn của sư trưởng. Thế nào là tiểu hiếu? Tức là hiếu thảo với cha mẹ trong đời này mà thôi; lo lắng, chăm sóc làm cho cha mẹ vui vẻ, phụng dưỡng, an ủi, đó tức là cung kính cha mẹ, cúng dường cha mẹ. Thế nào gọi là viễn hiếu? Tức là kính trọng các bậc thánh hiền xưa kia, ly mỗi lời nói mỗi công hạnh của họ làm gương sáng để mình bắt chước noi theo. Thế nào là cận hiếu? Tức là ngoại trừ hiếu thảo với cha mẹ mình, thì cũng cần phải hiếu thảo với cha mẹ người khác. Rằng: "lo ngô lo, dĩ cập nhân chi lo," tức là tôn trọng những huynh trưởng, tiền bối của mình rồi cũng tôn trọng những bậc tiền bối của kẻ khác. Mình cần có tư tưởng và hành động hiếu thảo như vậy.
Pháp xuất thế chân chính thì vượt qua đạo hiếu, do đó tôi mới nói rằng: Không nên chấp trước hiếu đạo. Nếu chấp trước về sự hiếu thảo với cha mẹ thì mình vẫn còn tư tưởng và tình cảm thương yêu. Ðó chỉ là vọng niệm. Cả ngày chỉ tưởng nhớ tới cha mẹ thì làm sao tu đạo? Do đó theo chân lý thì không nên trọn đạo hiếu. Khi tôi giảng tới đây, có người không hiểu, có người hiểu, do đó mọi người hy nghiên cứu vấn đề này một cách sâu xa.
Hiện tại lòng người mỗi ngày mỗi sa sút, phẩm hạnh mỗi ngày một tệ hại. "Nhân tâm bất cổ," lòng người không như xưa. Vì sao vậy? Bởi vì người đời vốn phải hiếu thảo với cha mẹ, song le họ lại bất hiếu. Họ cho rằng hiếu thảo là tư tưởng lạc hậu, rằng cha mẹ có bổn phận nuôi nấng con cái. Do đó họ không có hiếu với cha mẹ mình. Họ không phụng dưỡng phải chăng để tu hành? Cũng không phải. Nếu ai chân chính tu hành thì không cần thiết phải phụng dưỡng cha mẹ mà cũng được xem là đại hiếu. Tương lai sẽ siêu độ cha mẹ mình. Nhưng nếu đã không hiếu thảo với cha mẹ, cũng không tu hành, chỉ chuyên tạo đủ thứ ác nghiệp thì tương lai nhất định sẽ đọa vào ba đường ác. Ðiều này không còn nghi ngờ gì nữa. Bạn hãy xem! Hiện tại nhiều thanh niên nam nữ học thói hèn hạ, nếu không giết người đốt nhà cũng làm chuyện gian dâm tà đạo, không có chuyện ác gì mà họ chẳng làm. Họ nghĩ rằng làm chuyện phóng đãng, không chính đáng như vậy là được tự do. Họ cho rằng không cần phải hiếu thảo với cha mẹ mà nên học những điều xấu xa. Tư tưởng như vậy thật là sai lầm! Tuy mình không thể vơ đũa cả nắm, nhưng đại khái phần lớn hanh niên đều phạm những lỗi lầm như vậy.
Người tu hành tuy không trọn đạo hiếu với cha mẹ, nhưng có khả năng cứu cha mẹ ra khỏi biển khổ để thăng lên cõi trời. Nhưng cũng có những người không hiếu thảo với cha mẹ, cũng không tu hành. Hằng ngày cứ làm chuyện không có đạo đức, hoặc phá hoại gia đình mình, hoặc nhiễu loạn quốc gia xã hội, làm mt an ninh trật tự. Ðó tức là tự mình chặt gốc, càng chặt gốc thì càng không còn chỗ đứng, tương lai không biết sẽ ra sao. Những việc làm xấu xa như thế là những hành vi tội lỗi khó mà tha thứ được.
Trên đây tôi có nói là tu hành có thể buông bỏ sự chấp trước vào cha mẹ, chuyên tâm nhất trí mà tu hành thì đó là điều đúng. Song le nếu không tu hành cũng không làm tròn đạo hiếu thì đó là sai. Ðiểm này các bạn hãy nhận cho rõ ràng bởi vì: "Vạn ác dâm vi thủ, bách thiện hiếu vi tiên," trong vạn điều ác thì dâm dục là đứng đầu, trong một trăm điều lành thì hiếu thảo là trước hết.
H.T. Tuyên Hóa Vạn Phật Thánh Thành ngày 29 tháng 7 năm 1983

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

CHƯƠNG I: TU HÀNH -HT QUẢNG KHÂM


Chương I: Tu Hành
1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục"
anabull2.gif (133 bytes) Pháp môn mà ta tu học là pháp Vô-thượng, là Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở trong tâm.
anabull2.gif (133 bytes) Xuất gia tu hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này thì trí huệ chưa khai mở; cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được.
anabull2.gif (133 bytes) Tu đạo là vì giải thoát, không bị chìm đắm trong luân hồi. Coi bạn có thể tu đến chỗ Ngũ Uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều "không" chăng?
anabull2.gif (133 bytes) Tu đạo thì cần trừ tham, sân, si; đạt đến chỗ thân, miệng, ý đều trong sạch.
anabull2.gif (133 bytes) Từ thuở vô thủy tới nay, nghiệp chướng mà mình tạo ra thì đầy ngập như núi cao. Ngày nay các bạn xuất gia tu hành thì cần phải tiêu trừ nghiệp chướng của mình đi. Nếu không khéo tu hành, mà ngược lại, tạo tội nghiệp, thì núi cao nghiệp chướng kia ngày càng đắp cao thêm; vĩnh viễn bạn không còn cách gì thoát khỏi vòng sanh tử.
2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu
A. Tham, Sân, Si
anabull2.gif (133 bytes) Hễ bạn khởi tâm động niệm thì tự mình đã sai lầm rồi đó, là bởi do cái "ngã", cái "tôi" tồn tại. Ðây là niệm rất vi tế; chỉ do niệm này bắt đầu khởi dậy, mà tất cả ý nghĩ khác dấy lên.
anabull2.gif (133 bytes) Cứ chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn luôn đúng, luôn tốt; nghe người ta nói mình tốt thì vui, thì thích; bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, thì rầu; đó đều là nhân-ngã tướng- thấy thật có mình, có người. Khi tu hành mà còn có tướng nhân-ngã như thế thì không thể yên ổn tu hành. Khi còn ngã-tướng thì làm gì cũng thấy có cái "ta", coi cái "ta" này trọng lắm, phân định ranh giới "ta" và "bọn họ" rõ ràng lắm. Như vậy thì chẳng có lợi gì cho việc tu, mà ngày ngày lại do đó phát sinh phiền não.
anabull2.gif (133 bytes) Nếu bạn đắm trước, chấp chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, chạm xúc, và ý tưởng) thì trí huệ không thể khai phát đặng.
anabull2.gif (133 bytes) Tai các bạn lúc nào cũng thích nghe, nghe xem có ai nói xấu mình chăng; mắt lúc nào cũng thích nhìn hình sắc đẹp đẽ; đó là những thứ chẳng lợi cho việc tu.
anabull2.gif (133 bytes) Không trừ sạch tham, sân, si, thì không có cách gì khai trí huệ đâu!
anabull2.gif (133 bytes) Chỉ cần tham một thứ gì đó là đủ khiến ta trở lại vòng luân hồi rồi!
anabull2.gif (133 bytes) Tham một thứ thì nhiều thêm một thứ. Ít đi một vọng niệm thì bớt đi một chút nghiệp, lại tăng thêm một phần giải thoát.
anabull2.gif (133 bytes) Không nên nổi lòng tức giận, dù nhỏ như sợi lông; nếu không mình chẳng thể nhập đạo đặng.
anabull2.gif (133 bytes) Nếu bạn vẫn còn lòng yêu đương, tình ái trong quan hệ phụ mẫu, bạn bè, đồng sự, bà con..., thì trăm ngàn vạn kiếp bạn vẫn mãi ở trong luân hồi. Nếu có hạt giống Phật thì sự tu hành tương đối mau hơn.
anabull2.gif (133 bytes) Không nên để những thứ xấu xa, rác rến chất đầy đầu não, thật là thống khổ đấy! Không nên yêu thích cái đẹp; hãy mặc cái y này (chỉ áo cà-sa của chư Tăng, Ni) mà trực tiếp tới cõi Tây Phương. Nếu bạn thích (mặc áo) đẹp thì sau này khi ở Tây Phương sẽ tự nhiên có y phục đẹp mặc vào, không cần phải may phải mua. Có kẻ chưa tới Tây Phương song hiện đã có hình dáng như ở đó rồi.
B. Ngã Mạn
anabull2.gif (133 bytes) Không nên học tánh cứng đầu, cố chấp.
anabull2.gif (133 bytes) Không nên có ngã-chấp (luôn nghĩ tới cái "ta", luôn cho rằng "ta" đúng). Có ngã-chấp thì trí huệ không khai mở. Ðùng nên sanh lòng cống cao ngã mạn bởi vì nó chướng ngại đường Ðạo.
anabull2.gif (133 bytes) Không dẹp sạch ý niệm về "ta" và "người" (nhân-ngã tướng), thì không cách gì giải thoát. Sư-Phụ vốn dạy mình Pháp-môn Giải-thoát; Ngài nói Pháp không phải để thu nhập nhân tài.
anabull2.gif (133 bytes) Nếu kẻ có tài năng song không khéo tu hành, do đó cứ nghĩ lăng xăng, tính toán việc này việc nọ. Tu hành là tu ở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; là mặc áo thô, ăn cơm đạm, coi thử bạn có khả năng tu luyện để đầu óc được thanh tịnh hay chăng.
C. Thiện ít. Ác nhiều
anabull2.gif (133 bytes) Trong tâm, thế lực xấu ác thì mạnh còn khuynh hướng tốt thì yếu.
Thế tốt thì nói: "Tôi là tốt lắm đây"; thế xấu thì nói: "Tôi là tốt nhất đây!" Tư tưởng xấu ác luôn đứng đầu, lấn át tư tưởng thiện; nên thiện chung cuộc bị ác đè bẹp. Ðó là điều không tốt.
anabull2.gif (133 bytes) Từ thuở vô thủy đến nay, do ý niệm thiện trong lòng ta ít ỏi còn ý niệm xấu ác lại nhiều, nên tự-tánh trong sạch (Phật-tánh) bị che phủ, không xuất hiện được. Bởi vì niệm ác tích lũy ấy mà ta cứ khởi vọng niệm, thích ngủ, thích hưởng thụ... mà không cách gì đề kháng đặng. Ðó chính là nghiệp chướng; do đó mình phải tu để chế phục nó. Nếu không, dù bạn đi đây đi đó nghe giảng, bạn chỉ là nghe vô một đống mà phiền não thì vẫn đầy dẫy, chẳng chỗ nào thông đạt!
anabull2.gif (133 bytes) Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Khi không chánh niệm thì tà niệm khởi.
Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng. Có kẻ vì vậy mà muốn rời bỏ chùa; hoặc có kẻ cảm thấy không có ý vị gì nên muốn hoàn tục. Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó!
anabull2.gif (133 bytes) Không sợ hãi thì tâm mới an định. Khi tâm sợ hãi thì không thể an định.
Sợ hãi là tâm lý chỉ cho mình cảm nhận thôi, kẻ khác không cảm thấy như mình; do đó, chỉ có mình là bất lợi. Khi mình không tự chủ thì mới sợ. Sợ quá, sợ hoài, thì sanh phiền não. Khi ấy, tâm không an định thì sẽ chẳng còn Ðạo tâm tu hành nữa!

THÀNH TÂM NIỆM CHÚ ĐẠI BI TẤT ĐƯỢC NHƯ Ý

Cầu giàu sang, cầu trị bệnh, cầu vinh hoa, cầu gì được nấy. Nhưng nhân duyên mỗi người khác nhau, có người mới tụng liền được cảm ứng, có người thành tâm tụng nhưng chưa cảm ứng, đây là bởi chưa đủ thôi, nếu kiên trì tụng mỗi ngày ít nhất 5 biến, 108 biến càng tốt. Khi nào đủ công đức tất sẽ được như ý. Qúy vị cũng thường nên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, các Ngài sẽ gia hộ cho quý vị. Tụng chú Đại Bi, quý vị nên tìm hiểu về 42 thủ nhãn, vì 42 thủ nhãn này vô cùng vi diệu. Cuối cùng, qúy vị nên ăn chay khi tụng chú.
A Di Đà Phật!  

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU 2-TRÍCH CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HT TUYÊN HÓA

4-Dẫn dắt kẻ mê. 

Vào đêm 19 tháng 2 âm lịch, vía Quán Âm, năm Ngài mười hai tuổi, Ngài trải qua một giấc mơ dị kỳ. Trong mơ Ngài thấy mình bị lạc vào đồng vắng hoang dã, chỉ thấy cỏ xanh rậm rạp, nhìn lên chẳng thấy trời, nhìn xuống không thấy bóng người mà Ngài lại đi trên một con đường đầy hầm sâu hố cạn, đường lộ lại lõm chõm; có nhiều hố lớn bằng cái bàn, vừa rộng vừa sâu, nhìn xuống không thấy đáy tối tăm rất nguy hiểm nếu bị té xuống thì khó mà sống nổi. Ngài lặng người, đứng tại chỗ tiến không được mà thối cũng không xong, không biết phải dời chân cất bước như thế nào? Ngài kinh hoàng, nhìn quanh bốn phía không một bóng người để cầu cứu, vừa sợ, vừa run, chợt nghĩ đến ước nguyện tu hành chưa đạt, tâm hiếu phụng dưỡng cha mẹ chưa xong, nếu lúc nầy lỡ xảy ra việc gì không may... nghĩ đến đây Ngài bật khóc lớn. Ngay lúc ấy có một bà Lão, đáng mạo phúc hậu đột nhiên xuất hiện trước mặt, Ngài ngưỡng đầu lên xem thì thấy Bà mặc y phục người tu, tay cầm gậy trúc, chân mang dép rơm. Bà lộ vẻ trầm tư, đôi mắt sáng ngời, miệng mĩm cười bảo Ngài rằng: 

- Này bé, sao con lại khóc dữ vậy? 

- Con chớ lo hãy đi theo dấu chân ta thì sẽ không bị lạc, ta sẽ đưa con về nhà vì đường còn xa vạn dặm nên trong lúc đi con phải cẩn thận đừng để trượt chân nhé! 

Bà lão đi trước Ngài lần bước theo sau, Bà cụ dẫn đường và không mấy chốc được thoát ra khỏi hiểm lộ đến một con đường lớn bằng phẳng, phút chốc ngôi nhà hiện ra, Ngài cảm thấy vui mừng khấp khởi: À! Cuối cùng mình đã về đến nhà rồi, thật là con đường khủng khiếp. 

Ngoảnh nhìn lại con đường nguy hiểm ấy Ngài phát hiện có rất nhiều người đi theo: trẻ, già, đàn ông, đàn bà, tu sĩ và có cả những nhà học giả nữa, Ngài cảm thấy lạ bèn hỏi Bà Lão: 

- Thưa Bà, họ là ai? Họ từ đâu đến và đang đi đâu vậy? 

- Họ là những người đều có duyên với con, họ đang lần bước theo con để vượt qua đường hiểm trở và họ cũng muốn về nhà. Bà lão tiếp: 

- Đường còn xa vậy con phải dìu dắt họ cho chu đáo, Bà có nhiều việc phải làm nơi khác chẳng bao lâu sẽ trở lại, nên bây giờ bà phải chia tay với con, chúng ta sẽ gặp nhau trong một ngày gần đây. 

Ngài muốn hỏi quý danh và chỗ ở của Bà thì được trả lời: 

- Chúng ta là người đồng hương, về tới nhà thì con sẽ biết, con không nên hỏi nhiều như vậy. 

Nói xong Bà quay mình biến mất, Ngài bèn dẫn mọi người về nhà an toàn, vừa về đến nhà, Ngài bổng giật mình tỉnh giấc, lòng mừng thơi thới.

5- Quy y Tam Bảo. 

Trong giấc mơ lúc đi lạc vào đường đầy hố sâu hiểm trở Ngài như vừa trải qua một lần sinh tử, nhờ có Bà lão chỉ dẫn nên Ngài mới thoát nạn, sau khi tỉnh giấc Ngài cảm động vô cùng biết được đây không phải là mộng tầm thường và luôn nghĩ rằng: Sanh tử là đại sự, ai mà biết được vận mạng ngày mai của mình, một khi thân này mất đi muôn kiếp khó mà được lại; Vì vậy ý niệm xuất gia cầu Pháp tu đạo của Ngài ngày càng kiên cố. Ngài đem việc này trình lên cha mẹ và được Ông Bà đồng ý cho Ngài tìm Thầy học đạo. Ngài bắt đầu một cuộc hành cước tham vấn nhiều nơi, trải qua ba năm cuối cùng Ngài gặp được Lão Hòa Thượng Thường Trí. Khi diện kiến Hòa Thượng Ngài cảm giác như đã thân thiết với lão Hòa Thượng tự bao giờ, Ngài thỉnh Hòa Thượng ban giáo pháp tu đạo làm sao để cắt dứt dòng sanh tử. Lão Hòa Thượng trả lời: 

- Con phải hằng thường chân thật tu hành pháp môn không hai (bất nhị) chỉ hướng Nhất thừa. 

Nghe xong, Ngài hoan hỷ đảnh lễ Lão Hòa Thượng Thường Trí làm thầy và chánh thức Quy Y Tam Bảo. 

Đại sư Thường Trí là một vị Thầy mà đạo đức cao dày với sự chứng đắc không thể nghĩ bàn. Mặc dầu không bao giờ Ngài học đọc, học viết nhưng môn đồ của Ngài thường nghe Ngài thuyết pháp trường hàng và kệ tụng làu thông, Ngài có khả năng đó vì Ngài đã giác ngộ chân tánh thanh tịnh.

6- Thời kỳ học tập, giáo huấn. 

Khi lên mười lăm tuổi Ngài mới bắt đầu đi học tại một trường tư. Lúc mới học làm câu đối, Ngài hứng thú vô cùng, càng học càng tâm đắc. Bấy giờ trong lớp có trên ba mươi bạn đồng học mỗi lần họ không đáp được câu đối liền tìm đến Ngài, Ngài đều hoan hỉ giúp họ. Đây là cơ hội cho Ngài tu trí và mở rộng tâm từ. Chưa đầy hai năm rưỡi sau Ngài đã thông suốt các ý chỉ của Tứ Thư, Ngũ Kinh và còn học thêm rất nhiều về ngành bốc, y, lý, số, chiêm tinh, bách tánh. Tuy nhiên Ngài chú trọng nhất về việc học và hành các kinh điển Phật-giáo. Ngài vượt hẳn các bạn đồng học và có thể thuộc làu một tác phẩm sau khi chỉ đọc qua một lần. Thế nên năm mười tám tuổi Ngài bắt đầu dạy học cho hơn ba mươi học trò; họ đều là con nhà nghèo, Ngài cho đó là nghĩa vụ của mình.

7- Thập tử nhất sanh. 

Một ngày nọ trong nhóm hơn ba mươi học trò của Ngài, đột nhiên có đến mười mấy người bị chứng bệnh đậu dương mao (lông dê), một loài bệnh truyền nhiễm khắp làng rất khó trị và có thể làm chết người. Nếu không kịp cứu chữa, thì trong vòng ba ngày người bệnh sẽ chết. Nếu chữa kịp thì bệnh sẽ thuyên giảm. Bệnh đậu này một khi phát khởi thì sanh chứng nhức đầu dữ dội, rất may là Ngài biết cách điều trị, Ngài dùng đầu một cây quẹt lửa nhấn vào chỗ nổi phù ở trước ngực của bệnh nhân, nếu chỗ bị nhấn đó hỏm vô mà không phù ra liền, thì chắc chắn là bệnh đậu dương mao, kế đến Ngài dùng cây nhọn giống như cây kim, chích thẳng vào chỗ sưng rồi cạy miếng thịt sưng đó lên rồi dùng dao xén đi. Lúc nhìn kỹ vào miếng da bị cắt thì thấy có nhiều sợi lông giống như lông dê. Phải trải qua sự chữa trị như vậy thì bệnh mới khỏi được. 

Có một học trò mà Ngài rất thương mến, vì cậu này không những biết giữ quy củ mà còn học xuất sắc và Ngài tuyển cậu làm trưởng lớp. Không may cậu cũng mắc phải bệnh đậu này. Có câu nói rằng: “Quan tâm tất loạn (lo thì loạn),” Ngài thật quan tâm về bệnh tình của cậu học trò này nên rất lo âu. Thế nên sau buổi chiều tan học đó, chính Ngài cũng bị lây bệnh này. 

Người khác bị bệnh Ngài còn có thể trị liệu cho, nhưng bây giờ bản thân Ngài bệnh thì làm sao đây? Cắt miếng thịt sưng ở trước thân thì không nói chi, nhưng nếu chỗ sưng phía sau lưng thì làm thế nào? Bấy giờ đầu Ngài đau tựa hồ muốn vở ra, Ngài nghĩ thầm: “Con đã hiến trọn cuộc đời cho Phật Pháp, nếu như Chư Phật thấy con chẳng còn giúp ích được gì, con sẽ hoan hỉ từ giả cõi đời này, nhưng nếu chúng sanh còn cần đến con, thì con tin tưởng rằng con sẽ lành bệnh mà không cần chữa trị gì cả.” 

Nghĩ vậy xong, Ngài ngủ thiếp lúc nào không hay, chỉ một lát thì giật mình thức dậy và cảm như bị nghẹt cứng trong cổ họng. Ngài cảm thấy đầu Ngài biến lớn ra, không thở được vì trong cổ họng như có vật gì chận ngang. Ngài dùng sức khạc mạnh, sau những cơn ho, Ngài nhổ ra cả đàm lẫn nhiều chùm lông và từ đó Ngài được lành bệnh. Trong đời Ngài, đây là một trong những lần thoát chết mà Ngài đã kinh nghiệm qua. Từ đó Ngài nổ lực trong trách nhiệm truyền bá giáo pháp là sứ giả của đức Như Lai. 

- Đốn và Tiệm 

Sau khi quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí, Ngài rất tinh cần tu tập thiền định, bất cứ kinh Phật nào Ngài cũng xem như là trân bảo, siêu vấn từng chữ từng câu, ngày ngày tụng đọc, nghiền ngẫm và học thuộc. 

Khi lên mười sáu, sau khi đi học được một năm, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Phật. Ngài đã giảng kinh Pháp Bảo Đàn, kinh Kim Cang cùng các kinh điển khác cho những vị Tu sĩ ở ngôi Chùa làng không biết đọc, viết và không có trường nào để học cả. 

Trong lúc nghiên cứu kinh Pháp Bảo Đàn Ngài càng cảm thấy hoan hỉ tuyệt vời. Chúng ta hãy đọc lời các môn đồ của Lục Tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn như sau: 

- Chúng ta là thiền phái chính thống, Trường phái Nam truyền Đốn-ngộ. Thầy của chúng ta, Đại sư Huệ Năng là thừa kế chân truyền của giáo pháp. 

Ở miền Bắc các đệ tử của Ngài Thần Tú thì xiển dương Tiệm-giáo và tuyên bố rằng, 

- Toàn bộ tâm pháp của Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đã được trao truyền cho Thầy chúng ta là Ngài Thần Tú. 

Vì thế hai trường phái trên tranh luận không thôi với nhau. 

Khi Hòa Thượng Tuyên Hóa đọc những lời này Ngài nghĩ rằng: Làm sao có thể có Đốn và Tiệm được? Đốn và Tiệm có phải là hai không? Đốn và Tiệm có khác nhau không? 

Cũng để diễn đạt tư tưởng của Ngài đối với đệ tử của hai Ngài Lục Tổ và Ngài Thần Tú, Ngài bèn làm bài kệ sau đây: 

Đốn Tiệm tuy khác, 

Thành công tại một. 

Sao phân Nam Bắc, 

Thánh Phàm tạm khác, 

Căn tánh vẫn đồng. 

ĐỐN có nghĩa là thành Phật tức khắc, còn Tiệm có nghĩa là thành đạo từ từ; Tuy nhiên khi một người đã thành Phật thì không còn có Đốn có Tiệm nữa; Tại sao cần phải phân biệt Bắc Tông của Ngài Thần Tú và Nam Tông của Lục Tổ? 

Vì lẽ một người đã hành trì Phật pháp một cách tinh tấn trong quá khứ cho nên người ấy được giác ngộ tức thời và đạt Phật quả. “Thánh” chỉ cho đức Phật, còn “Phàm” là nói về chúng sanh; Hai ý kiến dường như khác nhau, nhưng bản chất của mỗi chúng sanh không khác. Đức Phật là một chúng sanh đã đạt được đạo quả, và chúng sanh là các đức Phật chưa thành Chánh-giác. Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành đạo dưới cội cây Bồ-đề và Ngài tuyên bố rằng: “Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu; tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, chỉ vì vọng tưởng và tham ái mà họ chưa chứng Bồ Đề.” 

Cho nên Ngài đã nói rằng: 

“Đừng bảo rằng đức Phật A Di Đà ở bên Tây phương, còn ở Đông phương chỉ là chúng sanh, chớ nên phân biệt như vậy, bản chất giống nhau và nếu quý vị thật sự hiểu được Phật pháp, thì chẳng có gì khác nhau cả. Nếu quý vị tiếp tục tranh luận thì quý vị còn chấp trước và sẽ không hiểu được Phật pháp; Quý vị cũng đừng tuyên dương Sư phụ của quý vị, như là: ‘Thầy tôi từ bên Tàu qua, mang theo Pháp Tạng chính thống, tức là Phật pháp chân truyền.’ Thay vào đó, hãy nói với người rằng: ‘Điều gì Thầy của chúng tôi nói đều là hư huyễn.’ Giáo pháp không thể được diễn tả bằng ngôn từ, lời nói, và trên bản chất không có chánh có tà, chẳng có đúng có sai. Đừng bàn chuyện thị phi về người. Đừng hành động giống như các đệ tử của Lục Tổ và Ngài Thần Tú.”

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

42 THỦ NHÃN TRONG CHÚ ĐẠI BI (TỨ THẬP NHỊ THỦ NHÃN)



  • 01.Như ý bảo châu thủ nhãn (Chú ngữ – Ma ra ma ra) - Cầu giàu sang, tài bảo
  • 02.Quên Sách Thủ Thủ Nhãn (Chú ngữ – Ma ra ma ra) - Cầu sự bình an, giải nạn
  • 03.Bảo bát thủ nhãn (Chú ngữ – Hô lô hô lô hê rị) - Cầu tiêu trừ tật bệnh
  • 04.Bảo kiếm thủ nhãn (Chú ngữ – Đia rị tất ni na) - Hàng phục quỷ mị, vọng lượng ám hại
  • 05.Bạt chiết la thủ ấn (Chú ngữ – Giả kiết ra a tất đà dạ) - Hàng phục thiên ma quỷ thần
  • 06.Kim cang xử thủ nhãn (Chú ngữ – Ta ra ta ra) - Hàng phục oán cừu, thù địch
  • 07.Thí vô úy thủ nhãn (Chú ngữ – Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ) - Tiêu trừ sự sợ hãi ở mọi nơi
  • 08.Nhật tinh ma ni thủ ấn (Chú ngữ – Thất Phật ra gia) - Cầu được mắt sang suốt
  • 09.Nguyệt tinh ma ni thủ nhãn (Chú ngữ – Độ lô độ lô) - Cầu bệnh nóng được mát lành
  • 10.Bảo cung thủ nhãn (Chú ngữ – Phạt sa phạt sâm) - Cầu quan vị, chức tước
  • 11.Bảo tiển thủ nhãn (Chú ngữ – Ba dạ ma na) - Cầu được sớm gặp bạn tốt
  • 12.Dương chi thủ nhãn (Chú ngữ – Mục đế lệ) - Cầu khỏi các loại thân bệnh
  • 13.Bạch phất thủ nhãn (Chú ngữ – Ma ma) - Cầu khỏi các ác chướng đến bên mình
  • 14.Bảo Bình Thủ Nhãn (Chú ngữ – Na ra cẩn trì) - Cầu người thân, quyến thuộc được sự hòa thuận
  • 15.Bàng bài thủ nhãn (Chú ngữ – Phạt xà da đế) - Các ác thú sài lang, cọp báo không dám đến gần
  • 16.Phủ mâu thủ nhãn (Chú ngữ – Tất ra tăng a mục khê gia) - Không bị các nạn kiện tụng, bắt bớ
  • 17.Ngọc hoàn thủ nhãn (Chú ngữ – Hô lô hô lô ma ra) - Được có người hầu cận (nam hoặc nữ)
  • 18.Bạch liên hoa thủ nhãn (Chú ngữ – Yết mông) - Cầu được các thứ công đức
  • 19.Thanh liên hoa thủ nhãn (Chú ngữ – Rị đà dựng) - Cầu được vãng sanh Tây phương Tịnh Độ
  • 20.Bảo kính thủ nhãn (Chú ngữ – Thất na thất na) - Cầu được thông minh, trí tuệ
  • 21.Tử liên hoa thủ nhãn (Chú ngữ – Phật ra xá da) - Cầu được thấy chư Phật khắp mười phương
  • 22.Bảo khiếp thủ nhãn (Chú ngữ – Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ) - Cầu được các thứ châu báu trong long đất
  • 23.Ngũ sắc vân thủ nhãn (Chú ngữ – Ma hê ma hê) - Cầu thành tựu các pháp môn tu
  • 24.Quân trì thủ nhãn (Chú ngữ – Đà ra đà ra) - Cầu được sanh lên cõi trời Phạm Thiên
  • 25.Hồng Liên Hoa Thủ Nhãn (Chú ngữ – Ba đà ma yết tất đà dạ) - Cầu được sanh lên các cõi trời
  • 26.Bảo qua thủ ấn (Chú ngữ – Ma ha phạt xà da đế) - Không bị các nạn đạo tặc quấy nhiễu
  • 27.Bảo loa thủ nhãn (Chú ngữ – Cu lô cu lô) - Triệu được các chư thiên, thiện thần
  • 28.Độc lâu chi thủ ấn (Chú ngữ – Y hê di hê) - Sai khiến được các loài quỷ thần
  • 29.Sổ châu thủ nhãn (Chú ngữ – Phật ra xá lợi) - Cầu được chư Phật mười phương đến gia hộ
  • 30.Bảo đạc thủ nhãn (Chú ngữ – Giá ra giá ra) - Có được các âm thanh thù thắng của chư thiên
  • 31.Bảo ấn thủ nhãn (Chú ngữ – Tát bà tát bà) - Cầu được khẩu tài vô ngại
  • 32.Câu thi thiết Câu thủ nhãn (Chú ngữ – Địa rị ni) - Cầu được trời rồng thường đến hộ vệ
  • 33.Tích trượng thủ nhãn (Chú ngữ – Di đế rị dạ) - Muốn cho chúng sanh được sự an ổn
  • 34.Hiệp chưởng thủ nhãn (Chú ngữ – Tất rị tất rị) - Vì cầu cho chúng sanh thường thương mến nhau
  • 35.Hóa Phật thủ nhãn (Chú ngữ – A ra sâm) - Cầu sinh ra bất cứ nơi đâu cũng thường gặp được Phật
  • 36.Hóa cung điện thủ nhãn (Chú ngữ – Phạt ma ra) - Cầu đời đời được sanh vào cung điện của Phật
  • 37.Bảo kinh thủ nhãn (Tất đà dạ ta bà ha – ma ha tất đà dạ ta bà ha) - Cầu được học rộng nhớ nhiều
  • 38.Bất thoái kim luân thủ (Chú ngữ – Bồ đề dạ) - Cầu tái sanh nơi đâu cũng không thoái chuyển tâm bồ-đề
  • 39.Đỉnh thượng hóa Phật thủ nhãn (Chú ngữ – Bồ đà dạ) - Cầu được chư Phật mười phương xoa đầu thọ ký
  • 40.Bồ đào thủ nhãn (Chú ngữ – A tất đà dạ) - Cầu mùa màng sung mãn
  • 41.Cam lồ thủ nhãn (Chú ngữ – Tô rô tô rô) - Cầu cho các loại quỉ đói được no đủ mát mẽ
  • 42.Tổng nhiếp thiên tý thủ nhãn (Chú ngữ – Ma bà lợi thắng yết ra dạ – Hàng phục được các loài ác ma trong tam thiên đại thiên thế giới
  • CÁCH ĐẠT ĐƯỢC SỰ NHIỆM MẦU CỦA CHÚ ĐẠI BI 2


    37. Thất Na Thất Na.
    “Thất Na Thất Na” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “đại trí huệ”, còn gọi là “hoằng thệ nguyện”.
    Ðại trí huệ này là Bảo Kính Thủ Nhãn ở trong 42 Thủ Nhãn. Bảo Kính là gương báu, cũng là ví dụ ‘đại viên cảnh trí’ của Phật. Ðại viên cảnh trí của Phật cũng giống như Bảo Kính Thủ. Do đó dịch ra ý nghĩa gọi là đại trí huệ. Còn gọi là hoằng thệ nguyện. Hoằng cũng là lớn.
    Ðại trí huệ là gì ? Chúng sinh thì khởi vọng tưởng, còn Phật thì không có vọng tưởng. Sự nghĩ của Phật là do trí huệ phát ra, là trí huệ Bát Nhã chân chánh. Trí Bát Nhã là một thứ trí đại quang minh, một thứ đại quang minh. Vì sao có đại quang minh ? Vì có trí huệ chân chánh. Nếu chúng ta có trí huệ chân chánh thì có quang minh, nếu người ngu si thì họ sẽ đen tối. Quang minh tức là ánh sáng mặt trời, đen tối tức là âm khí. Vì sao bạn ngu si ? Vì bạn âm khí quá thạnh. Vì sao bạn thông minh ? Vì bạn thạnh ánh sáng mặt trời. Cho nên đại trí huệ này chẳng giống như tư tưởng của một số người; mà biện rõ được thị phi, chẳng cần hỏi ai, thấy thì biết ngay :”Như thế này thì không đúng, như thế kia thì đúng”. Ðường không đúng thì không đi, đường đúng thì tiến bước tu hành.
    Tu hành trước hết phải có đại trí huệ, có đại trí huệ thì biện rõ được thị phi, biết “phải đạo thì tiến, trái đạo thì lùi”. Bạn không thể biết rõ đây là việc không đúng mà bạn vẫn muốn làm. Bạn biết rõ là phạm giới mà bạn vẫn muốn thử xem có phạm hay không phạm, đó là ngu si nhất, chẳng có trí huệ. Bạn nói :”Chẳng phải ! tôi có trí huệ, song lúc đó lỡ làm sai”. Lúc đó bạn làm sai thì lúc đó là ngu si, tức là chẳng có trí huệ; người có đại trí huệ thì chẳng nghĩ tưởng điên đảo. Cho nên Ngài A Nan mới nói :”Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng, bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.” Nghĩa là :”Tiêu diệt nghĩ tưởng điên đảo của con trong ức kiếp, chẳng trải qua số kiếp A tăng kỳ mà đắc được pháp thân”. Ức kiếp ở đây chẳng phải là một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, năm kiếp hoặc là một trăm kiếp, một ngàn kiếp, một vạn kiếp mà nói không ra bao nhiêu đại kiếp.
    Tại sao trong tâm của chúng ta có nhiều vọng tưởng? Vọng tưởng trước diệt thì vọng tưởng sau sinh ra, vọng tưởng sau diệt thì vọng tưởng sau nữa lại sinh ra, giống như sóng biển. Sóng ở trong biển tức là vọng tưởng của con người; vọng tưởng của chúng ta tức cũng là sóng ở trong biển. Bạn thấy biển thì cho rằng nó là vật chết, phải chăng? Biển không ra khỏi tâm của chúng ta, chúng sinh đều ở trong tâm của chúng sinh. Bạn thấy sóng trong biển không ngừng, vọng tưởng của chúng ta cũng giống như sóng, cái này diệt thì cái khác đến, cái khác nữa lại đến, vô cùng vô tận, nối tiếp không ngừng, cái sau theo cái trước, ai cũng chẳng lạc về sau, đều nghĩ chạy về phía trước, đó là vọng tưởng.
    Tại sao lại có vọng tưởng? Vì chẳng có trí huệ. Nếu bạn có trí huệ thì sóng cũng chẳng có, “sóng yên, gió lặng”, trong biển chẳng có sóng cũng giống như người tu hành đắc được định lực. Một khi đắc được định lực thì nước trí huệ sẽ hiện tiền, chẳng có sóng, chẳng có vọng tưởng. Lúc đó mới thật là thanh tịnh, thật là chẳng nhiễm một bụi trần, vạn tư lự đều không, đó là biểu hiện đại trí huệ hiện tiền. Người có đại trí huệ thì làm việc gì cũng đều thành công; còn người chẳng có trí huệ thì làm việc gì cũng đều thất bại, cho nên trí huệ là quan trọng nhất.
    Ngu si là gì ? Vô minh tức là ngu si, ngu si tức là vô minh. Khi vô minh sinh ra thì bạn chẳng minh bạch. Cho nên có những người làm việc sai lầm, hỏi y rằng :”Tại sao bạn làm như thế ?” Y nói :”Tôi không biết”. Ðó là gì ? Tức là ngu si, chẳng có trí huệ, là vô minh.
    Song do vô minh làm ra việc sai mà mình còn không thừa nhận là vô minh, họ nói “I know ! Tôi biết”. Biết mà còn làm sai ? Bạn thấy có kỳ quái chăng ? Ðó tức là người ngu si ! Chẳng có đại viên cảnh trí tức cũng chẳng tu Bảo Kính Thủ Nhãn. Nếu bạn có Bảo Kính Thủ Nhãn thì không ngu si. Bất cứ những gì đến, ma đến thì chém ma, Phật đến thì chém Phật, giống như bạn cầm một thanh kiếm bén, bất cứ việc gì đến thì thanh kiếm đều chặt đứt. Ðại trí huệ cũng giống như thanh kiếm báu.
    Có người nói thanh kiếm trí huệ rất nặng, chẳng dễ gì cầm lên. Bạn không cầm, chứ nếu bạn cầm thì chẳng phí sức; bạn không cầm thì nhẹ cũng là nặng; bạn cầm lên thì nặng cũng là nhẹ. Tại sao? Bạn cầm lên thì nặng cũng biến thành nhẹ. Nếu bạn cầm thanh kiếm trí huệ lên thì tất cả cảnh giới đến đều chém sạch, việc gì cũng chẳng có vấn đề. Cho nên tôi thường nói :”Everything’s ok”, tức cũng là đạo lý này. Nếu bạn không thể nào everything’s ok thì bạn chẳng có thanh kiếm trí huệ, cho nên bạn không thể okay được. Nếu bạn có thanh kiếm trí huệ thì việc gì cũng chẳng có vấn đề. Bạn thấy bất cứ vấn đề gì mà gì cũng đều chẳng có vấn đề, đó là chỗ diệu.
    Trên thế giới này, hết thảy tất cả sơn hà đại địa, nhà cửa, y báo, chánh báo đều không ra ngoài một tâm niệm hiện tiền của chúng ta. Y báo là gì ? Tức là sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc. Chánh báo là gì ? Tức là thân thể của chúng ta đang thọ quả báo ở đây. Nếu bạn minh bạch thì tức cũng chẳng có vô minh; chẳng có vô minh tức là có đại trí huệ. Cũng giống như tấm gương, “vật đến thì chiếu”, cảnh vật gì đến đều hiện ra; “vật đi thì lặng”, cảnh vật đi rồi thì chẳng còn nữa.
    Cho nên người có trí huệ gặp cảnh giới gì đến thì thuận theo cảnh giới đó, xử lý xong thì trong tâm của họ chẳng tồn tại. Tuy là chẳng tồn tại, Song thường hiện; tuy thường hiện mà chẳng tồn tại. Chẳng phải giống như chúng ta, chẳng có trí huệ, có một việc gì đến thì dùng đến gân não, đặc biệt chú ý nhớ việc đó hoặc là đọc nhiều lần. Giống như hôm nay giảng về “Y Hê Di Hê, Thất Na Thất Na”, đọc một lần thì chẳng nhớ, đọc hai lần, ba lần, đọc mấy trăm lần “Thất Na, Thất Na, Thất Na” mới nhớ, đó là miễn cưỡng. Không miễn cưỡng thì thấy một lần liền nhớ, không bao giờ quên, đây gọi là lọt qua mắt không quên. Vì sao lọt qua mắt không quên ? Vì nó giống như tấm gương.
    Người có trí huệ thì biết được tất cả mọi vật đều ở trong tâm của mình, cho nên cũng chẳng có tâm tham, chẳng có tâm sân, chẳng có tâm si, chẳng có tâm ngã mạn, chẳng có tâm hoài nghi. Tại sao? Ðó đều là duy tâm sở hiện ! Ở trong tâm vốn có mọi vật, bất cứ vật tốt cũng chẳng có vấn đề, vật xấu cũng chẳng có vấn đề, tất cả đều chẳng có vấn đề.
    Song, cảnh giới này nói ra rất là dễ dàng, khi làm cũng phải dùng một chút công phu mới có thể đắc được. Cảnh giới này nếu người chẳng có công phu thì sẽ nói :”Ðối với tất cả mọi việc tôi cũng chẳng có vấn đề gì”. Bên ngoài chẳng có vấn đề, song bên trong phát sinh vấn đề, ở bên trong của bạn với bạn đánh nhau. Do đó người có trí huệ chân chánh rất là ít.
    Hơn nữa, nếu người đó có đại trí huệ thì hãy xem là trí huệ thế gian hay là trí huệ xuất thế gian. Trí huệ thế gian tức là thế trí biện thông, họ rất khéo ăn khéo nói, chẳng có đạo lý, họ cũng nói rất có đạo lý. Người chẳng có trí huệ nghe thì cho rằng :”Họ nói rất có đạo lý, không sai ! Lời họ nói rất hay”. Kỳ thật, nếu người có trí huệ chân chánh thì chẳng nghe những lời của kẻ ngu nói. Họ nói đạo lý ngu si thì không thể ở trong ngu si của bạn, đây gọi là “trong dương có âm”, trong trí huệ có ngu si, là “trong âm cũng có dương”, trong ngu si cũng có trí huệ. Ví như người nào đó, bạn thấy ông ta chẳng nói nhiều, cũng là một người rất bình thường, song ông ta làm việc gì cũng đều hợp đạo lý; thấy ông ta có vẻ rất ngu si, dốt nát song ông ta làm gì cũng rất chánh đáng. Có rất nhiều trường hợp như thế, cho nên bạn quán sát người thì hãy xem bạn có trí huệ chân chánh chăng ! Nếu bạn có trí huệ chân chánh thì không nghe lời kẻ ngu nói, còn nếu bạn chẳng có trí huệ chân chánh thì sẽ bị người làm cho ngu. Trí huệ là như thế, những thứ khác cũng như thế.
    Trí huệ và ngu si có mối quan hệ với nhau. Bạn chẳng có ngu si tức là trí huệ, nếu không có trí huệ thì tức là ngu si. Ngu si tức là trí huệ, trí huệ tức là ngu si. Trí huệ và ngu si là một, bạn dùng được tức là trí huệ; không dùng được tức là ngu si. Giống như bạn vốn có kiếm trí huệ này, bạn cầm lên tức là trí huệ, buông xuống tức là ngu si, chẳng phải hai mà là một. Do đó bạn đừng nói rằng :”Ði tìm trí huệ, xua đuổi ngu si đi”. Chẳng phải, mà là biến. Ví như lòng bàn tay là trí huệ, mặt trái bàn tay là ngu si. Nếu bạn dùng mặt trái bàn tay cầm đồ thì không cầm được; song bạn dùng lòng bàn tay cầm đồ thì cầm được. Cầm đồ lên không được là ngu si, cầm đồ lên được là trí huệ.
    Ai ai cũng đều dùng bàn tay, trí huệ cũng giống như thế; nó là một, song là hai bên, xem bạn dùng bên nào. Bây giờ bạn đã hiểu chăng? Có người nói :”Tôi đã hiểu Phật pháp, trí huệ và ngu si tức là bàn tay”. Sai rồi! Ðó là tôi ví dụ bàn tay, bạn đừng cho rằng trí huệ và ngu si tức là bàn tay; cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng, bạn đừng cho rằng đầu ngón tay là mặt trăng.
    Bây giờ giảng về đại trí và hoằng thệ. Hoằng cũng là đại (lớn). Thệ là thệ nguyện, tức là ta phát thệ nguyện, nghĩ muốn làm gì. Giống như Phật A Di Ðà trước khi chưa thành Phật, làm Tỳ Kheo Pháp Tạng phát ra 48 lời thệ nguyện, đó là thệ nguyện của Phật A Di Ðà.
    Bồ Tát Phổ Hiền phát ra ‘mười đại nguyện vương’ rằng :”Một là lễ kính chư Phật, hai là khen ngợi Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỉ công đức, sáu là thỉnh Phật chuyển pháp luân, bảy là thỉnh Phật ở lại đời, tám là thường theo Phật tu học, chín là luôn luôn thuận theo chúng sinh, mười là hồi hướng công đức đến khắp hết thảy chúng sinh.
    Bồ Tát Quán Thế Âm cũng phát nhiều thệ nguyện. Các vị Tổ Sư khác cũng phát nhiều thệ nguyện. Chúng ta bây giờ học Phật pháp, mỗi người cũng nên phát nguyện của mình. Tôi nói với các bạn, bất quá phát hay không là do các bạn, chẳng phải tôi ép các bạn phát nguyện, phải do các bạn tự phát nguyện. Vì các bạn chẳng hiểu nên tôi khuyên. Bạn phát nguyện càng lớn thì càng tốt, nguyện lực của bạn lớn thì thành Phật cũng rất lớn. Bạn thấy Phật A Di Ðà phát 48 lời nguyện, nguyện nào cũng đều độ chúng sinh, nguyện nào cũng trang nghiêm cõi nước. Cho nên chúng ta tại nhân địa học Phật pháp đều nên phát nguyện. Mỗi người có thể biên lời nguyện của mình ra, bạn phát ra bao nhiêu lời nguyện thì biên ra rõ ràng, đừng cẩu thả bừa bãi, nói như vầy :”Tôi phát nguyện độ chúng sinh”. Ðộ như thế nào ? Bạn suốt ngày đến tối cứ nghĩ muốn ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà tốt, đi độ chúng sinh này chăng ? Kết quả là độ chúng sinh của chính mình, độ cái bụng chúng sinh của mình, độ chúng sinh thân thể của mình, như thế thì không được. Bạn phải nói rõ ràng lời nguyện của bạn phát ra, tương lai như thế nào ? Hiện tại ra sao ? Quá khứ, hoặc là có dụng công, chẳng dụng công, có tu hành, chẳng tu hành, đây chẳng thành vấn đề, chỉ hỏi bạn tương lai phải như thế nào ? Bạn phát nguyện càng lớn thì quả vị tương lai cũng lớn.
    Ở trên giảng “Thất Na Thất Na”, tức là đại trí hoằng thệ. Hoằng là lớn, thệ là thệ nguyện. Chúng ta là người học Phật pháp, phải phát thệ nguyện. Thệ nguyện rất là quan trọng. Chúng ta người tu đạo nếu chẳng có thệ nguyện thì giống như bạn chẳng biết có lối nào tu hành, cũng chẳng có hướng đạo, cho nên đường của bạn đi chẳng biết có đúng hay không đúng; nếu bạn có thệ nguyện cũng giống như có hướng đạo. Giống như chúng ta du lịch, có người đưa chúng ta đi khắp nơi, giới thiệu tình hình chỗ bạn đi qua, đó là hướng đạo, ví như lời nguyện của bạn.
    Tại sao chư Phật Bồ Tát khi tu đạo đều phải phát nguyện? Tức cũng như bạn có phát nguyện, sau đó có hành vi. Cho nên Bồ Tát Ðịa Tạng tại nhân địa phát nguyện rằng :”Ðịa ngục bất không, thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề”. Bạn thấy đó lời nguyện của Ngài, rất là vĩ đại ! Do đó hiện nay chúng ta học Phật pháp cũng nên phát nguyện, ai muốn làm gì thì đừng ngại phát nguyện.
    38. A La Sâm, Phật La Xá Lị.
    “A La Sâm” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “chuyển luân pháp vương”. Chuyển là vận chuyển, luân là bánh xe pháp, tức là Ðấng Pháp Vương chuyển bánh xe pháp. Chuyển đại pháp luân là luôn luôn diễn nói diệu pháp đại thừa, đạo lý nói ra rất thâm sâu vi diệu, những người khác nói không được vi diệu pháp mà bạn giảng giải rất tỉ mỉ, đó gọi là chuyển luân pháp vương.
    Thủ Nhãn này là “Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn”. Bạn tu pháp này thì đời đời kiếp kiếp đều luôn luôn theo chư Phật tu học, luôn luôn sinh vào chỗ của chư Phật.
    Ở Ðài Loan cũng có vị Pháp sư nào đó giảng Chú Ðại Bi, mỗi một Thủ Nhãn ông ta đều giảng thành một vị Bồ Tát. Ví như “Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn” thì ông ta nói là “Chưởng Thượng Hóa Phật Bồ Tát Thủ Nhãn”. Ðó là sai một ly đi một dặm. Tại sao? Vì vốn chẳng có tên vị Bồ Tát này ! Bạn hãy mở toàn bộ Ðại Tạng Kinh ra, từ đầu đến cuối chẳng có một Bồ Tát nào gọi là “Chưởng Thượng Hóa Phật Bồ Tát”, chẳng có. Bạn có thể nói như vầy :”Bồ Tát tu Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn”; ý nghĩa này khác nhau. Bạn đem tên của Thủ Nhãn làm tên cho Bồ Tát, như thế thì chẳng có căn cứ, chẳng có căn cứ thì bạn tìm không ra tên của Bồ Tát này.
    Giống như câu này ông ta cũng nói :”Như Ý Châu Bồ Tát Thủ Nhãn”. Như ý châu là tên của hạt châu, hoặc là có một vị Bồ Tát cũng gọi tên đó, song 42 Thủ Nhãn chẳng phải là tên của 42 vị Bồ Tát, chẳng phải. Ở đây chỉ có thể nói “Bồ Tát tu Như Ý Châu Thủ Nhãn”, không thể nói :”Như Ý Châu Bồ Tát Thủ Nhãn”. Bạn nói như thế thì đã sai lại càng sai, bạn cũng không thể nói :”Bảo Bát Bồ Tát Thủ Nhãn”, chỉ có thể nói :”Bồ Tát tu Bảo Bát Thủ Nhãn”, chẳng phải Bảo Bát là tên của Bồ Tát. Tôi thấy họ ở Hương Cảng giảng lại quyển “Ðại Bi Kinh giảng nghĩa” cũng giảng như thế, biến 42 Thủ Nhãn thành 42 tên của Bồ Tát, đó là sai lầm.
    Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn này đều là sở tu của Bồ Tát, chứ chẳng phải là tên của 42 vị Bồ Tát, chỗ này, chúng ta học Phật pháp phải nên biết. Giảng Phật pháp nhất định phải có căn cứ, chẳng có căn cứ mà giảng Phật pháp thì không chánh quyết. Cho nên “A La Sâm” là Chưởng Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn, là sở tu của Bồ Tát. Vị Bồ Tát nào? Vị Bồ Tát này không nhất định. Ai tu 42 Thủ Nhãn thì người đó là vị Bồ Tát đó, ai không tu thì người đó chẳng phải là vị Bồ Tát đó. Bạn tu 42 Thủ Nhãn thành công rồi thì bạn sẽ chứng đắc quả vị Bồ Tát.
    “Phật La Xá Lị” là Tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “giác thân tử”. Các bạn còn nhớ Xá Lợi Phất còn gọi là “Xá Lợi Tử” chăng ? Dịch ra nghĩa là “thân tử”, tức là “xá lợi”.
    “Phật La Xá Lị” là ‘giác thân tử,’ đây là Sổ Châu Thủ Nhãn sở tu của Bồ Tát; sổ châu cũng là niệm châu. Bồ Tát tu Sổ Châu Thủ Nhãn thì có thể đắc được mười phương chư Phật cấp tốc đến nhiếp thọ, mười phương chư Phật tiếp dẫn vị đó đến mười phương thế giới thành Phật.
    39. Phạt Sa Phạt Sâm.
    “Phạt Sa Phạt Sâm” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “hoan ngữ hoan tiếu”, tức là thích nói, rất hoan hỉ nói. Còn có một ý nghĩa nữa, dịch ra là “Ðại Trượng Phu”; còn có một ý nghĩa nữa, dịch ra là “Vô Thượng Sĩ”, đó là ba ý nghĩa.
    Trong 42 Thủ Nhãn thì câu Chú này thuộc về “Bảo Cung Thủ Nhãn”, ai tu Thủ Nhãn này, nếu là người tại gia thì có thể làm quan lớn, nếu là người xuất gia thì có thể chứng quả A La Hán.
    40. Phật La Xá Gia.
    “Phật La Xá Gia”. Ở trên là “Phật La Xá Lị”, dịch ra nghĩa là “giác thân tử”, còn “Phật La Xá Gia” dịch ra nghĩa là “tượng”. Ý ở đây nói là nếu trong tâm của bạn giác ngộ thì làm con của Ðấng Tượng Vương. Con của Ðấng Tượng Vương tức cũng là Pháp Vương Tử (con của Ðấng Pháp Vương), tương lai sẽ làm Ðấng Pháp Vương tối cao, cho nên nói “giác tâm giác tượng vương”, là ý nghĩa đại khái của câu Chú này.
    Câu Chú “Phật La Xá Gia” này là nói bổn thân của Phật A Di Ðà. Phật A Di Ðà là sư phụ của Bồ Tát Quán Thế Âm; vì Bồ Tát Quán Thế Âm nơi nơi đều cung kính sư phụ của Ngài, cho nên Ngài nói Chú Ðại Bi cũng là tôn trọng sư phụ của Ngài. Câu Chú này là Phật A Di Ðà phóng quang để chiếu đến người trì Chú. Câu Chú này tức cũng là “Tử Liên Hoa Thủ”. Trong 42 Thủ Nhãn có Bạch Liên Hoa Thủ, Thanh Liên Hoa Thủ, Tử Liên Hoa Thủ, Hồng Liên Hoa Thủ. Tu Tử Liên Hoa Thủ Nhãn có thể gặp được mười phương chư Phật, do đó Tử Liên Hoa Thủ này rất là quan trọng.
    41. Hô Lô Hô Lô Ma La.
    “Hô Lô Hô Lô Ma La” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “tác pháp, như ý”, còn có ý nghĩa nữa là “tố pháp mạc ly ngã”. Câu Chú này là “Kim Chạc Ngọc Hoàn Thủ Nhãn”. Chúng ta tu 42 Thủ Nhãn gọi là “tác pháp”. “Như ý” là toại tâm như ý. Bạn tu Thủ Nhãn này thành công rồi thì sẽ toại tâm như ý.
    “Tố pháp mạc ly ngã”, “tố pháp” tức là tu hành, tức là chính mình phải tu hành, chứ chẳng phải kêu người khác tu hành. Cho nên tu pháp này thì pháp này chẳng lìa ta, ta cũng chẳng lìa pháp này, “ta, pháp”, biến thành một. Tức nhiên biến thành một, cũng chẳng có pháp, cũng chẳng có ta; ta và pháp hai chấp đều không; cũng chẳng có pháp chấp, cũng chẳng có ngã chấp, đây gọi là “mạc ly ngã”. Tu Kim Chạc Ngọc Hoàn Thủ Nhãn hay khiến cho tất cả chúng sinh đều nghe sự giáo hóa của bạn; bạn giáo hóa họ tu hành pháp gì thì họ tu pháp đó.
    42. Hô Lô Hô Lô Hê Lị.
    “Hô Lô Hô Lô Hê Lị”: Câu Chú này cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “tác pháp vô niệm”. Còn gọi là “tác pháp tự tại”. Ở trên là tác pháp như ý, đây là tác pháp vô niệm. Như ý thì vẫn còn có một ý niệm; bây giờ vô niệm thì dù một niệm cũng chẳng có, tác pháp thì chẳng có bất cứ một niệm gì. Còn một niệm thì còn vọng tưởng, bạn chẳng còn niệm thì chẳng còn vọng tưởng; chẳng còn vọng tưởng cho nên tác pháp tự tại, biến thành Quán Tự Tại.
    Câu Chú này là “Bảo Bát Thủ”, là Thủ Nhãn thứ ba trong 42 Thủ Nhãn. Bảo Bát Thủ có công năng gì? Hay giải trừ tất cả bệnh đau của chúng sinh. Giống như bây giờ một số người xuất gia rất tin Chú Ðại Bi, bèn gia trì ‘nước Chú Ðại Bi’. Nếu ai có bệnh thì gia trì một ly ‘nước đại bi’ cho họ uống. Uống vào có khi bệnh khỏi, có khi bệnh không khỏi, đó là xem nhân duyên của bạn. Nhân duyên của bạn uống ‘nước Chú Ðại Bi’ khỏi bệnh thì bạn sinh niềm tin, tin Bồ Tát Quán Thế Âm; có khi bệnh không khỏi thì bạn chẳng tin, chẳng tin Bồ Tát Quán Thế Âm.
    Kỳ thật, có khi cũng không khỏi, có khi mau khỏi, đó là xem nhân duyên của bạn với bệnh nhân. Nếu bạn và y có duyên thì y uống ‘nước đại bi’ của bạn sẽ khỏi bệnh; nếu chẳng có duyên mà uống ‘nước đại bi’ thì y cũng chẳng có niềm tin, bệnh cũng chẳng khỏi. Nói tóm lại, có đủ thứ nhân duyên mới có thể giúp thành pháp duyên này. Nếu bạn có sự tu hành thì đối phương mới có tâm thành. Song bạn có sự tu hành mà đối phương chẳng thành tâm uống ‘nước đại bi’, hoặc là không khỏi bệnh. Hoặc bạn chẳng có sự tu hành mà đối phương có tâm thành, uống ‘nước đại bi’ thì cũng sẽ khỏi bệnh. Ở đây có đủ thứ quan hệ, có khi người này nghiệp chướng nặng, và ‘nước đại bi’ của bạn không có công lực lớn mấy, cho nên y uống vào thì bệnh cũng chẳng hết. Có khi người đó nghiệp chướng nhẹ, và ‘nước đại bi’ của bạn rất có công phu. Gì gọi là có công phu ? Tức là bạn luôn luôn trì Chú Ðại Bi thì có một sức lực cảm ứng đạo giao, cho nên bệnh của người đó được lành. Do đó, bất cứ việc gì cũng đều có đủ thứ nhân duyên ở trong đó để hỗ trợ, có đủ thứ trợ duyên mới thành tựu. Bạn đừng cho rằng tôi tu “Bảo Bát Thủ”, tôi gia trì ‘nước đại bi’, sao chẳng có chút công hiệu nào ? Phải chăng ‘nước đại bi’ chẳng có công hiệu, là vì công phu của bạn không đủ, cho nên công hiệu cũng giảm bớt.
    Vì vậy, có những kẻ ngoại đạo cũng dùng ‘nước đại bi’ cho bệnh nhân uống, rất linh nghiệm, rất có công lực. Tại sao? Vì có những kẻ ngoại đạo có thiên ma đến trợ giúp họ. Thiên ma trợ giúp người tu hành đó khiến cho một số người tin họ thì họ dễ dàng dẫn những người đó đi vào trong thiên ma ngoại đạo. Cho nên cùng tu một pháp môn mà có nhiều sự việc khác nhau.
    Chúng ta muốn dùng ‘nước đại bi’ để cho bệnh nhân uống, đó cũng là một trong những hạnh của Bồ Tát đạo, song bạn phải hành Bồ Tát đạo, trước hết tu Bồ Tát hạnh. Bạn phải tồn tâm chẳng có tướng người, tướng ta, tướng thọ mạng, tướng chúng sinh.
    Bạn đừng cho rằng : Tôi hay trị lành bệnh cho mọi người, tôi niệm Chú Ðại Bi rất có cảm ứng. Ðừng có tâm niệm như thế, tại sao ? Vì bạn có tâm niệm như vậy là có sở chấp trước, có chấp trước thì có ma chướng. Nếu bạn chẳng có tâm niệm như thế thì vẫn có ma chướng. Vì một số người có mao bệnh hoặc là nghiệp, hoặc là ma. Nếu bị nghiệp chướng mà bạn chữa khỏi thì chẳng có vấn đề gì, nếu họ bệnh về ma chướng, có ma mà bạn nghĩ muốn cho họ hết bệnh, thì con ma sẽ nghĩ muốn tìm bạn để đấu tranh. Nếu đạo lực của bạn không đủ thì sẽ nhập vào cảnh giới ma vương. Dù bạn có đạo lực cũng sẽ kết oán với con ma đó. Kết oán thì con ma sẽ muốn tìm cơ hội để đấu tranh với bạn. Trong quá khứ, tôi rất thích trị bệnh cho người, ai có bệnh thì tôi nhất định nghĩ cách trị cho khỏi, song về sau tôi gặp ma chướng rất lớn.
    Tôi đã từng nói qua, lúc tôi ở tại Ðông Bắc bên Trung Quốc thì quái vật ở trong nước muốn dùng nước giết chết tôi, song chẳng giết chết tôi được, chúng giết chết khoảng năm sáu chục người, nhà cửa bị sập đổ khoảng tám chín trăm căn nhà. Về sau khi tôi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, đi bằng đường biển thì quái vật ở trong biển lại muốn làm lật thuyền của tôi đi, cho nên cũng sém làm mồi cho cá. Từ đó về sau, tôi đến nội địa rất ít chữa bệnh cho người.
    Việc chữa bệnh rất dễ kết oán, lại rất dễ kết duyên. Nếu bạn chữa bệnh cho người khỏi hẳn thì người đó sẽ biến phương pháp để cúng dường bạn, hoặc là cho bạn ăn vật ngon, hoặc là cho bạn đồ tốt, hoặc là cúng dường chút tiền cho bạn. Ðó cũng rất dễ hóa duyên, song cũng rất dễ kết oán, cho nên vấn đề nầy cũng có tốt cũng có xấu. Nếu bạn chẳng còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, bốn tướng thì có thể làm. Nếu bốn tướng chưa phá được thì rất dễ bị ma chướng. Muốn kết duyên chữa bệnh cho người nên có đủ thứ quan hệ như thế.
    43. Sa La Sa La.
    “Sa La Sa La”: Bạn nghe âm thanh này rất là lợi hại. Ðây là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “kiên cố lực”. Sức lực này đặc biệt kiên cố, chẳng có ai phá hoại được. “Sức kiên cố” này có thể phá tan tất cả thiên ma ngoại đạo, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo.
    Câu Chú này là “Kim Kang Xử Thủ”, tức cũng là “Bảo Xử Thủ”. Bảo Xử Thủ này hay phá tan tất cả ma oán, cho nên gọi là ‘sức kiên cố’.
    44. Tất Lị Tất Lị.
    “Tất Lị Tất Lị”: Lại là tiếng Phạn, dịch ra có ba ý nghĩa.
    1. Là “dũng mãnh”, giống như tác chiến chỉ có thắng, chứ không thể bại.
    2. Là “thù thắng”, rất là đặc biệt, tức cũng chỉ có thắng lợi chứ không thể thất bại.
    3. Là “cát tường”. Vì bạn dũng mãnh mới thắng lợi; bạn thắng lợi mới cát tường. Ðây là “Hợp Chưởng Thủ”, có thể khiến cho tất cả quỷ thần, rồng rắn hổ báo sư tử, người, chẳng phải người đều cung kính. Song, phải thắng lợi, cát tường, phải có tâm dũng mãnh, chẳng phải miệng nói suông mà nhất định phải thực hành.
    45. Tô Lô Tô Lô.
    “Tô Lô Tô Lô” cũng là Tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “nước cam lồ”. Cho nên đây là “Cam Lồ Thủ Nhãn”. Nước cam lồ này cũng rất là hữu dụng. Nước cam lồ hay khiến cho ngạ quỷ được no đủ, được như ý, được cát tường, hết đói khát, có nhiều diệu dụng. Nước cam lồ còn gọi là thuốc bất tử. Bạn uống nước cam lồ này thì dù là người sắp chết cũng không thể chết được, song bạn không dễ gì có được. Nếu bạn có nước cam lồ thì người chết rồi cũng có thể cứu sống lại.
    46. Bồ Ðề Dạ Bồ Ðề Dạ.
    “Bồ Ðề Dạ Bồ Ðề Dạ”: Hai câu Chú này là tiếng Phạn, nghĩa là “giác đạo” hoặc là “giác tâm”. Bạn muốn đắc được giác đạo thì trước hết phải có tâm giác ngộ ; nếu bạn chẳng có tâm giác ngộ thì không thể tu đạo giác ngộ. Cho nên chúng ta người tu đạo, trước phải có tâm chân chánh giác ngộ, sau mới có thể tu thành đạo giác ngộ.
    Hai câu Chú này là “Bất Thối Kim Luân Thủ Nhãn”. Bất Thối Kim Luân tức là tâm bồ đề vĩnh viễn không thối chuyển.
    Từ nay cho đến khi thành Phật, tâm bồ đề đã phát ra phải càng ngày càng tinh tấn, vĩnh viễn không thể thối chuyển. Vì tâm bồ đề không thối chuyển, cho nên bạn sớm sẽ thành tựu quả vị Phật, nếu bạn thối thất tâm bồ đề thì thành Phật chậm một chút. Chúng ta là người học Phật pháp nên ngày càng tinh tấn, ngày càng phát tâm đại bồ đề, đừng thối thất tâm bồ đề. Giống như luôn luôn đến Phật đường để nghe giảng Kinh, phải có tư tưởng rất khó khăn mới nghe được Kinh, vì pháp hội này chẳng dễ gì gặp được. Bạn thấy pháp hội của chúng ta rất đơn giản, song hiện nay trên thế giới này bạn tìm pháp hội tinh tấn như chúng ta, hằng ngày giảng Kinh, hằng ngày thuyết pháp, giống như nước sông chảy hằng ngày, không ngừng, có thể nói là không có. Trên thế gian này, chúng ta gặp được pháp hội như thế này, bất cứ chúng ta như thế nào cũng ở trong sự bận rộn mà đến nghe Kinh, nghe pháp; mỗi khi có người giảng Kinh thì bạn nên đến tùy hỷ đạo tràng, ủng hộ đạo tràng. Chúng ta ở đây mỗi buổi tối đều có giảng Kinh, cho nên mỗi buổi tối đều nên đến ủng hộ pháp hội. Chúng ta đừng có phân biệt nói : Tối hôm là người nào giảng, người đó giảng không hay lắm, tôi không đi nghe. Ðừng có tâm như thế ! Bạn nghe lâu rồi thì bất cứ ai giảng cũng đều có chân lý, đều có chỗ phát minh. Cho nên nếu người nào có thời gian đều nên tùy hỉ pháp hội, đừng lười biếng. Vì pháp môn này trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được. Hiện nay chúng ta đã gặp thì hãy dũng mãnh tinh tấn. Bạn dũng mãnh tinh tấn thì không thối thất tâm bồ đề. Không thối lùi có ba thứ : Vị không thối lùi, niệm không thối lùi và hành không thối lùi.
    Vị không thối lùi : Nếu bạn đã chứng quả thì không thối lùi về phàm phu. Nếu bạn chứng được quả Bồ Tát thì không thối lùi về A La Hán; nếu bạn chứng được Phật quả thì không còn thối lùi về quả vị Bồ Tát, trừ khi bạn hoan hỉ nói tôi chứng được quả vị Phật, song tôi còn hiện thân Tỳ Kheo để giáo hóa chúng sinh.
    Niệm không thối lùi : Giống như chúng ta học Phật pháp, có khi cảm thấy chẳng có ý nghĩa gì, tôi chẳng muốn tu hành nữa, chẳng muốn đi nghe Kinh, đó là ý niệm thối lùi. Tôi không thích đến Chùa, không thích đi lễ Phật, đó là niệm thối lùi. Niệm thối lùi thì ma chướng sẽ sinh ra; ma thì rất thích bạn thối lùi. Nếu bạn niệm không thối lùi thì nghe Phật pháp, càng nghe càng thích nghe, càng thích nghe thì càng nghe, đó là niệm không thối lùi. Niệm không thối lùi thì hành phải không thối lùi.
    Hành không thối lùi : Hành là tu hành, tu hành càng ngày càng tiến bộ, ngày càng dụng công. Dũng mãnh tinh tấn phát tâm đại dũng mãnh để tu đạo, đó là hành không thối lùi.
    Bạn tu “Bất Thối Kim Luân Tử” thì đời này cho đến khi thành Phật, tâm bồ đề của bạn vĩnh viễn không thối lùi, cần nhất bạn phải tu hành.
    47. Bồ Ðà Dạ Bồ Ðà Dạ.
    “Bồ Ðà Dạ Bồ Ðà Dạ”: Bồ Ðề Dạ và Bồ Ðà Dạ, khác nhau về chữ ở giữa. Câu này là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “Trí Giả”, còn gọi là “Giác Giả”. Ở trên là “giác đạo, giác tâm”, ở đây là “Trí Giả, Giác Giả”. Trí là trí huệ; giác là giác ngộ. Ðây là người có trí huệ và giác ngộ chân chánh.
    Ðây là “Ðỉnh Thượng Hóa Phật Thủ Nhãn”. Hóa Phật ở trên đỉnh, Hóa Phật Thủ tức là Giác Giả (Bậc Giác Ngộ). Trí và giác vốn chẳng khác mấy. Trí là biết, là một giai đoạn ở trước sự giác ngộ; giác, tức là đã giác ngộ, tức là biết sự việc về sau. Cho nên khi trên đỉnh của bạn có hóa Phật, thành tựu Thủ Nhãn này thì lúc đó bạn là người có trí huệ chân chánh, tức cũng là Bậc Giác Ngộ. Bạn tu Thủ Nhãn này thì có thể được mười phương chư Phật cấp tốc đến rờ đầu thọ ký.
    Chúng ta người tu đạo, đều có một sự cảm giác; hoặc là bạn niệm Phật, hoặc trì Chú hoặc tu thiền định. Có khi ở trên đầu cảm thấy giống như có vật gì đang đi, hoặc giống như có con gì bò đi bò lại, cảm thấy như có vật gì ở trên đỉnh đầu, bạn lấy tay rờ thì chẳng có gì hết. Tôi nói cho bạn biết, lúc đó là mười phương chư Phật đến rờ đầu thọ ký cho bạn, bất quá bạn chẳng đắc được thiên nhĩ thông nên bạn chẳng nghe được; bạn chẳng đắc được thiên nhãn thông nên bạn cũng chẳng thấy được. Song mười phương chư Phật hết lòng đến rờ đầu thọ ký cho bạn.
    Cho nên nếu có tình hình này là bạn tu hành có sự cảm ứng, song đừng sinh tâm vui mừng, cũng đừng sinh tâm kiêu ngạo, đừng cho rằng Phật đích thân đến rờ đầu tôi, Phật đến gia trì cho tôi. Gia trì tức là dùng tay để rờ đầu bạn. Nếu bạn có tâm vui mừng, có tâm kiêu ngạo đều là một thứ chấp trước. Ðã là chấp trước thì dù cảnh giới tốt cũng sẽ biến thành không tốt. Giống như trong Kinh Lăng Nghiêm có đủ thứ cảnh giới, bạn vốn tu hành có cảm ứng, song nếu bạn cho rằng là bạn đắc được cảnh giới tốt, tức nhập vào đường tà, bị ma chướng. Cho nên tu hành phải như như bất động, Bất cứ là cảnh giới tốt, cảnh giới không tốt, cảnh giới lành, cảnh giới ác, đều không lay động. Nếu bạn không lay động thì có định lực; bạn có định lực thì sau đó sẽ sinh ra huệ lực chân chánh ; sinh ra huệ lực chân chánh thì bạn là bậc trí huệ, thì bạn là bậc giác ngộ.
    48. Di Ðế Lị Dạ
    “Di Ðế Lị Dạ”: Câu Chú này lại là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “chánh lượng”. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “đại lượng”, tức là số mục rất nhiều. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “tâm đại từ bi”. Tâm từ bi này sao gọi là đại ? Vì chẳng có biên tế, cho nên gọi là lớn. Tâm đại từ bi này hay bảo hộ tất cả chúng sinh đuợc an ổn khoái lạc, chẳng có sợ hãi và tai nạn.
    Thủ Nhãn này là “Tích Trượng Thủ Nhãn”. Trên tích trượng có ba bộ phận và chín cái khoen. Trước kia người xuất gia đều mang tích trượng, mỗi khi đi đường cây tích trượng phát ra âm thanh, tức khiến cho súc sinh ở dưới đất nghe tiếng động thì bỏ chạy, khiến cho bạn không đạp chết chúng. Tích trượng là một thứ pháp bảo ở trong Phật giáo. Bạn thấy Bồ Tát Ðịa Tạng luôn luôn cầm cây tích trượng dùng để mở cửa địa ngục, đó là chìa khoá mở cửa địa ngục. Cho nên tu Thủ Nhãn này thì có thể dưỡng tâm của bạn thành tâm đại từ bi để cứu hộ tất cả chúng sinh.
    49. Na La Cẩn Trì
    “Na La Cẩn Trì” : Cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “hiền ái, hiền thủ”, ý nói là đứng đầu trong hàng Thánh Hiền. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “thiên hộ, thiên đỉnh”, ý nói là khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, khéo độ thoát chúng sinh đến quả vị tối cao.
    Thủ Nhãn này gọi là “Bảo Bình Thủ Nhãn”, còn gọi là “Tịnh Bình Thủ Nhãn”, còn gọi là “Hồ Bình”, tức cũng ở trong Cam Lồ Thủ Nhãn của Bồ Tát Quán Thế Âm, tịnh bình đựng nước cam lồ. Tịnh bình này có thể trừ khử tất cả ô uế của thế gian, vì trừ khử tất cả ô uế nên cũng bao quát hay giải trừ tất cả bệnh tật của chúng sinh, cho nên gọi là thiên hộ, thiên đỉnh. Bồ Tát tu Thủ Nhãn này cũng khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, cho nên nếu tu Bảo Bình Thủ này thành công thì cũng có thể trợ giúp tất cả chúng sinh, giải trừ tai nạn của tất cả chúng sinh.
    50. Ðịa Lị Sắt Ni Na.
    “Ðịa Lị Sắt Ni Na”: Câu Chú này dịch ra nghĩa là “kiên lợi”, kiên là kiên cố, lợi là phong lợi, rất mau vô cùng. Còn dịch ra nghĩa là “kiếm”, tức là mật bảo kiếm rất bén nhọn.
    Ðây là “Bảo Kiếm Thủ Nhãn”. Bảo Kiếm Thủ Nhãn này có tác dụng gì ? Trước kia khi tôi dạy Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn đã có nói qua.
    Bảo Kiếm Thủ Nhãn hàng phục được tất cả lị mị, vọng lượng, quỷ thần, v.v… Bạn tu Thủ Nhãn này thành công thì tất cả thiên ma ngọai đạo, lị mị, vọng lượng đều lão thực, vì chúng sợ bảo kiếm này của bạn. Thủ Nhãn này rất là lợi hại, hay phá tan tất cả thiên ma ngọai đạo, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Bất cứ thiên ma ngoại đạo nào nếu không nghe bạn giáo hóa thì bạn có thể dùng bảo kiếm này chém chúng, cho nên Thủ Nhãn này lợi hại vô cùng.
    51. Bà Gia Ma Na.
    “Bà Gia Ma Na” : Là tiếng Phạn, dịch ra có rất nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất là “danh văn”, vì tên của Ngài trong mười phương thế giới đều nghe, đều biết. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “hỉ xưng”, vì mười phương chư Phật đều hoan hỉ khen ngợi kêu tên của bạn. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “thành danh”, thành tựu tên của bạn. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “nhất thiết nghĩa thành tựu”, tất cả mọi việc đều có thể thành tựu.
    Thủ Nhãn này gọi là “Bảo Tiễn Thủ Nhãn”. Bạn tu Thủ Nhãn này thì có thể khiến cho bạn mau gặp được tất cả bạn bè tốt.
    52. Ta Bà Ha.
    “Ta Bà Ha”: Câu này rất quan trọng. Trong Chú Ðại Bi có mười bốn câu “Ta Bà Ha”, mỗi một câu Ta Bà Ha đều có sáu ý nghĩa, do đó bạn nên nhớ, bất cứ trong câu Chú nào có Ta Bà Ha thì đều có sáu ý nghĩa.
    Sáu ý nghĩa là : Ý nghĩa thứ nhất là “thành tựu”. Bạn niệm Chú này thì tất cả mọi sở cầu, mọi sự hy vọng đều sẽ thành tựu. Nếu không thành tựu thì bạn chẳng thành tâm, nếu bạn thành tâm thì sẽ thành tựu. Nếu bạn có chút nghi ngờ trong Chú này thì sẽ không thành tựu; bạn phải có tâm tin chân thật thì sẽ thành tựu.
    Ý nghĩa thứ hai là “cát tường”. Bạn tụng Chú này thì tất cả sự việc không cát tường đều sẽ cát tường, song bạn phải có tâm tin chân thật; nếu bạn chẳng có tín tâm thì không thể cát tường được. Khi bạn tụng Chú tin hay không tin Bồ Tát đều biết, hoặc bạn có niềm tin chân thật hoặc nửa tin nửa ngờ, hoặc nghi nhiều hơn tin, Bồ Tát đều biết. Bạn muốn đắc được thành tựu này thì phải có tín tâm. Bạn muốn cát tường thì phải có tín tâm. Bạn cầu việc gì, ví như cha bị bệnh, bạn muốn cho cha hết bệnh, bạn tụng Chú, song bạn phải có tâm tin chân thật thì tụng mới có cảm ứng. Hoặc bạn có người bạn tốt nhất, rất lâu chưa gặp lại, bạn hy vọng gặp lại người bạn đó mà bạn tụng Chú này một cách thành tâm thì cũng sẽ được gặp lại. Hoặc là bạn chẳng có bạn trăm năm, bạn muốn có người bạn trăm năm tốt thì bạn cũng phải có tín tâm tụng trì Chú này, tụng lâu thì cũng sẽ được một người bạn tốt. Thậm chí bạn muốn được vị thiện tri thức cũng sẽ thành tựu.
    Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “viên tịch”. Khi vị Tỳ Kheo vãng sinh, Niết Bàn gọi là viên tịch, song viên tịch ở đây chẳng phải là chết. Vậy nếu tôi niệm Chú này tức là niệm chết, nghĩa là “Ta Bà Ha, Ta Bà Ha…!” Viên tịch, viên tịch tức là chết. Vậy tôi niệm có ý nghĩa gì ? Ai ai cũng chẳng muốn chết, tôi biết.
    Chẳng phải như thế. Viên tịch ở đây là “công vô bất viên”, công của bạn viên mãn; “đức vô bất tịch”, đức hạnh cũng đến cực điểm, chẳng phải một số người biết được, chỉ có Phật Bồ Tát biết được đức hạnh của bạn.
    Ý nghĩa thứ tư là “tiêu tai”, tiêu trừ tai nạn.
    Ý nghĩa thứ năm là “tăng ích”: Tăng thêm lợi ích của bạn. Bạn niệm “Ta Bà Ha” thì lợi ích của bạn sẽ tăng thêm, đặc biệt có ích lợi đối với bạn.
    Ý nghĩa thứ sáu tôi tin các bạn chẳng có ai biết. Nếu có người biết thì nói. Tại sao chẳng có ai biết ? Vì “Ta Bà Ha” này trước kia tôi chẳng nói qua, bây giờ bắt đầu giảng. Kỳ thật, tôi cũng đã giảng qua cho các vị nghe rồi, bất quá các vị chẳng biết ở chỗ nào. Gọi là gì ? Gọi là “vô trụ”, tức là “vô sở trụ”, vô sở trụ ở trong “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” của Kinh Kim Cang. Vô sở trụ là gì ? Tức là chẳng trụ vào bất cứ cái gì, tức như thế nào cũng đều được. Ðây là pháp vô vi. Vô vi mà vô bất vi ; vô trụ cũng là vô vi, vô vi cũng là vô trụ. Song vô trụ thân tâm, thân tâm cần phải vô trụ, đừng trụ ở nơi phiền não, đừng trụ ở nơi vô minh, đừng trụ ở nơi tâm tham. Chẳng phải trụ ở trong tâm sân, đừng trụ ở trong tâm si, đừng trụ ở trong tâm kiêu mạn, đừng trụ ở trong tâm nghi hoặc. Vô trụ là kêu bạn nếu có những thứ tâm này phải mau hàng phục nó. Hàng phục rồi tức là vô trụ. Dùng gì để hàng phục ? Tức dùng Bảo Kiếm Thủ Nhãn vừa mới giảng. Bạn có thể nói như vầy: Bạn nói bạn có tâm tham chăng? Tôi giết con ma tâm tham; có tâm sân chăng? Tôi chém con ma tâm sân; có ma tâm si chăng? Tôi giết con ma tâm si. Dùng kim cang vương bảo kiếm, tức cũng là kiếm trí huệ, hàng phục hết mọi thiên ma ngoại đạo này. Bạn muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết phải hàng phục vọng tưởng của chính bạn. Nếu bạn hàng phục được vọng tưởng của bạn thì cũng sẽ hàng phục được thiên ma ngoại đạo. Nếu bạn không có vọng tưởng thì thiên ma ngoại đạo sẽ không đến; dù nó có đến cũng chẳng làm gì được. Ðây là ý nghĩa thứ sáu của “Ta Bà Ha”.
    Những câu “Ta Bà Ha” dưới đây đều có sáu ý nghĩa này.
    53. Tất Ðà Dạ.
    54. Ta Bà Ha.
    55. Ma Ha Tất Ðà Dạ.
    56. Ta Bà Ha.

    “Tất Ðà Dạ Ta Bà Ha, Ma Ha Tất Ðà Dạ Ta Bà Ha”: Hai câu này cũng đều là tiếng Phạn. “Tất Ðà Dạ”: Câu đầu dịch ra nghĩa là “thành tựu đốn cát”, nghĩa thứ hai là “thành biện”, nghĩa thứ ba là “thành lợi”, nghĩa thứ tư là “thành nhất thiết nghĩa”, tất cả nghĩa đều thành; ý nghĩa thứ năm là “sở cung tán thán”.
    “Thành tựu đốn cát” là gì ? Vì chúng ta nhờ sức lực của Chú này nên thành tựu vui mừng tất cả mọi việc; bạn vui mừng hoan hỉ điều gì thì sẽ được điều đó. Có người nói : “Vậy tôi cũng niệm Chú Ðại Bi này, tại sao tức khắc chẳng được ?”. Niệm ở đây phải cần công phu tương ưng. Công phu của bạn chẳng tương ưng, cho nên chẳng thành tựu, nếu tương ưng thì sở cầu của bạn sẽ như ý, sở nguyện toại tâm. Cho nên gọi là “thành tựu đốn cát”. Còn gọi là “thành biện”, bạn làm việc gì thì sẽ được kết quả viên mãn. Còn gọi là “thành lợi”, hay thành tựu lợi ích của bạn. Còn gọi là “thành nhất thiết nghĩa”, bất cứ việc gì đều có thể thành tựu. Còn “sở cung tán thán” là mọi người đều đến khen ngợi, đều nói bạn tốt. Ðây là ý nghĩa “Tất Ðà Dạ Ta Bà Ha”.
    Câu thứ hai “Ma Ha Tất Ðà Dạ Ta Bà Ha”. “Ma Ha”: Chúng ta đều biết là “đại” (lớn). Ý nghĩa câu Chú này hay thành tựu những sự nghiệp lớn của bạn, thành tựu những công đức lớn, thành tựu đạo nghiệp lớn; hết thẩy mọi việc gì cũng đếu thành tựu rất lớn.
    Hai câu Chú này hợp lại gọi là “Bảo Kinh Thủ Nhãn”; bảo Kinh tức là một bộ Kinh điển quý báu, tức cũng là Pháp bảo. Bạn tu Bảo Kinh Thủ Nhãn sẽ đắc được lợi ích vô cùng vô tận. Bảo Kinh Thủ Nhãn này là Thủ Nhãn thứ ba mươi bảy trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn. Bạn tu Bảo Kinh Thủ Nhãn thì tương lai trí huệ của bạn có một sức trí nhớ đặc biệt tốt vô cùng.
    Nếu bạn tu Bảo Kinh Thủ Nhãn thì sẽ nghe rộng nhớ tốt, cũng là quảng học đa văn. Ngài A Nan là người đa văn bậc nhất. Chắc chắn Tôn Giả A Nan đã tu Bảo Kinh Thủ Nhãn này rất viên mãn trong vô lượng kiếp trong quá khứ, cho nên một khi lọt qua tai thì vĩnh viễn không quên, thậm chí chẳng lọt qua tai mà Ngài đều có thể nghĩ lại. Tôn Giả A Nan sinh ra cùng ngày Ðức Phật thành đạo, hai mươi tuổi xuất gia, vậy hai mươi năm trước khi Tôn Giả chưa xuất gia, Ðức Phật thuyết pháp, Tôn Giả A Nan không có nghe qua, tại sao Ngài lại kết tập tất cả Kinh điển? Vì những Kinh điển trước kia Ngài chưa nghe qua thì chính Ðức Phật thuật lại cho Tôn Giả nghe, cho nên Tôn Giả hoàn toàn nhớ hết Kinh điển của Phật nói. Sở dĩ Tôn Giả có sức nhớ rất tốt, chắc chắn Tôn Giả đã từng tu Bảo Kinh Thủ Nhãn này viên mãn mới có trí nhớ tốt như thế.
    Có người hỏi tôi :” Làm thế nào có sức trí nhớ ?”. “Bạn phải tu Bảo Kinh Thủ Nhãn này, nếu bạn tu Bảo Kinh Thủ Nhãn thì sẽ có sức trí nhớ, thì sẽ có năng lực đa văn”.
    Chúng ta ai nhớ Kinh này rất rõ ràng thì đại khái đều có duyên với Bảo Kinh Thủ Nhãn này.
    Trong họa đồ thì thấy trong tay Bồ Tát phóng quang cầm cây cờ, bạn thấy toàn thân Bồ Tát đều phóng đại quang minh. Phóng quang cũng là biểu thị bạn khai mở đại trí huệ, trí nhớ của bạn rất tốt, đa văn, học rộng.
    57. Tất Ðà Du Nghệ.
    58. Thất Bà La Dạ.
    59. Ta Bà Ha.

    “Tất Ðà” là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “thành tựu lợi ích”. “Du Nghệ” dịch ra nghĩa là “vô vi”, cũng gọi là “hư không”.
    “Thất Bà La Dạ” dịch ra nghĩa là “tự tại”. Ðây là “Bảo Khiếp Thủ Nhãn”, là Thủ Nhãn thứ hai mươi hai. Ý nghĩa của câu Chú này là trong tự tính lý thể của bạn tự tại thành tựu tất cả công đức.
    60. Na La Cẩn Trì.
    61. Ta Bà Ha.

    “Na La Cẩn Trì” dịch ra nghĩa là “ái hộ”, tức là ái hộ tất cả chúng sinh, nghĩa cũng là từ bi. Câu này là “Bảo Bình Thủ Nhãn”.
    62. Ma La Na La.
    63. Ta Bà Ha.

    “Ma La Na La” là tiếng Phạn. “Ma La” dịch ra nghĩa là “như ý”. ‘Na La’ nghĩa là “tôn thượng”, tối tôn tối thượng.
    Ðây là “Quyên Tố Thủ Nhãn”, nếu có chuyện gì không an thì có thể khiến cho bạn được bình an. Không an là gì ? Ví như có bệnh, hoặc có chuyện gì không an, có chướng ngại gì, đó là những chuyện không an.
    Quyên Tố Thủ này có rất nhiều hữu dụng. Ở trong Phật giáo gọi là Quyên Tố Thủ Nhãn, ở trong Ðạo giáo gọi là “khổn tiên thừng” dùng chỉ ngũ sắc làm sợi dây thừng. Bạn tu Thủ Nhãn này thành công, bạn phóng dây thừng ra thì yêu ma quỷ quái, lị mị vọng lượng đều bị trói chặt; bị trói không thể đi được thì chúng phải đầu hàng bạn.
    “Ta Bà Ha” cũng giống như nghĩa đã giảng ở trên.
    64. Tất La Tăng A Mục Khê Gia.
    65. Ta Bà Ha.

    “Tất La Tăng A Mục Khê Gia” là tiếng Phạn. Ý nghĩa của câu Chú này phải chia ra để dịch. “Tất La Tăng”, nghĩa là “thành tựu, ái hộ”, ái hộ tất cả chúng sinh.
    “A Mục Khê Gia”, dịch ra nghĩa là “bất không, bất xả”. Bất không tức là có (hữu), Song có ở đây là diệu hữu. Bất xả tức là không bỏ một pháp nào; không bỏ pháp nào mà phải học tất cả các pháp. Cho nên nói :”Phật sự môn trung bất xả nhất pháp, chân như lý thượng bất lập nhất trần”, tức là ý nghĩa này. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “ái chúng hòa hợp”, ái hộ tất cả chúng sinh, hòa hợp với nhau. Thủ Nhãn này là “Việt Phủ Thủ Nhãn”.
    “Việt Phủ Thủ Nhãn”, hay lìa khỏi tất cả hoạn nạn trong hoàng cung. Bạn tu pháp này thì không bị vương pháp câu thúc, mọi thời mọi nơi đều lìa khỏi hoạn nạn hoàng cung, chẳng có tai nạn ngục tù. Tai nạn ngục tù tức là phạm pháp bị ở tù. Có phải tu pháp này thì phạm pháp cũng không ngồi tù chăng ? Không phải, căn bản thì bạn sẽ không phạm pháp. Vì bạn tu pháp này thì bạn minh bạch Phật pháp, bạn đâu có phạm pháp. Cho nên bạn không phạm pháp thì đương nhiên chẳng có hoạn nạn hoàng cung. Vậy có người không phạm pháp cũng có hoạn nạn hoàng cung, đó là vì chẳng tu “Việt Phủ Thủ Nhãn” này.
    66. Ta Bà Ma Ha A Tất Ðà Dạ.
    67. Ta Bà Ha.

    “Ta Bà”: Các bạn đều biết, thế giới này gọi là thế giới “Ta Bà”. “Ta Bà” dịch ra nghĩa là “kham nhẫn”, còn có nghĩa nữa là “nhẫn ái”, còn có ý nghĩa nữa là “thiện thuyết, thiện đáo”, có ba ý nghĩa.
    Kham nhẫn, ý nói chúng ta chúng sinh hay kham nhẫn chịu đựng thống khổ của thế giới Ta Bà. Sự khổ ở thế giới Ta Bà này quá nhiều, hay nhẫn khổ mà sinh ra tâm thương yêu. ‘Thiện thuyết, thiện đáo’ : Ý nói bạn cho thế giới Ta Bà này quá tốt, vẫn đến thế giới Ta Bà để làm người.
    “Ma Ha”: Là pháp đại thừa; pháp đại thừa là pháp Bồ Tát.
    “A Tất Ðà Dạ” dịch ra nghĩa là “vô lượng thành tựu”, thành tựu chẳng có số lượng. Nghĩa là nói pháp Bồ Tát đại thừa cứu kính đạt đến bờ bên kia, vô lượng sự thành tựu.
    Thủ Nhãn này là gì ? Là “Bồ Ðào Thủ Nhãn”. Nếu bạn tu thành tựu Bồ Ðào Thủ Nhãn này thì trong miệng của bạn luôn luôn có vị ngọt giống như ăn bồ đào (nho), thậm chí còn ngọt hơn nho, hơn đường. Khi bạn tu pháp này thì bạn sẽ cảm giác trong miệng có một mùi vị ngọt, đây là sự tương ưng đầu tiên có cảm giác này. Nếu bạn trồng tất cả rau cỏ ngũ cốc, hết thảy các thứ thực vật trong vườn, nếu bạn tu Bồ Ðào Thủ thì tất cả sâu bọ sẽ không ăn hoặc phá hoại mùa màng của bạn làm. Bạn tu Thủ Nhãn này thì sâu bọ sẽ bỏ chạy đi. Bạn tu pháp này thì những cây ăn trái mà bạn trồng như táo, lê, mận, ổi… đặc biệt trái rất mau chín, cũng có một vị ngọt đặc biệt. Cho nên Bồ Ðào Thủ này cũng rất hữu dụng, vô lượng pháp đại thừa đều sẽ thành tựu.
    “Tất La Tăng A Mục Khê Gia Ta Bà Ha”: Ở trên là bổn thân Dược Vương Bồ Tát, Ngài dùng đủ thứ thuốc để chữa trị đủ thứ bệnh cho chúng sinh. Còn câu Chú “Ta Bà Ma Ha A Tất Ðà Dạ Ta Bà Ha” này là bổn thân của Bồ Tát Dược Thượng. Ngài cũng dùng đủ thứ loại thuốc để vì chúng sinh chữa trị tất cả bệnh tật.
    68. Giả Cát La A Tất Ðà Dạ.
    69. Ta Bà Ha.

    “Giả Cát La A Tất Ðà Dạ, Ta Bà Ha”: Cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “kim cang luân”. Kim cang luân tức cũng là một thứ kim cang bạt triết la hình tròn. Còn có một ý nghĩa là “hàng phục oán ma”, hay hàng phục tất cả oán ma. Oán là có tâm oán hận. Tại sao họ phải làm ma ? Vì trong tâm của họ có khí bất bình, cho rằng việc của Phật làm cũng không đúng, việc Bồ Tát làm cũng không đúng, việc A La Hán làm cũng không đúng, việc của chư Thiên làm cũng không đúng, việc vua Diêm Vương làm cũng không đúng, việc gì chúng cũng đều phản đối, cũng đều oán hận, chúng nhìn tất cả đều không đúng. Cho nên chúng giống như người bệnh cuồng, cũng chẳng màng đến quốc pháp, gia pháp, thế gian pháp, chẳng màng đến bất cứ những gì. Chúng ở thế gian chuyên môn hoành hành, chẳng kiêng nể ai. Ở trong loài người gọi là người điên cuồng, ở trong quỷ thần gọi là ma. Oán ma này có luồng oán khí xung thiên :”Các vị đều khinh tôi, đối với tôi không tốt, cho nên tôi phải đả đảo các ngươi. Phật tôi cũng đả đảo; Bồ Tát tôi cũng đả đảo, La Hán tôi cũng đả đảo, tất cả mọi người tôi đều phải ăn họ”. Có luồng oán khí :”Tất cả quỷ, tôi đều giết chết hết”. Gặp con quỷ nào thì giết con quỷ đó. Cho nên thứ ma này lợi hại như thế.
    Pháp này gọi là “Bạt Triết La Thủ”, Bạt Triết La Thủ Nhãn dùng kim cang luân này hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo và lị mị vọng lượng. Bất cứ ma quỷ gì, bạn dùng kim cang luân này tát pháp thì chúng đều lão thực, đều cúi đầu đảnh lễ bạn, nói :” Hay lắm, tôi sẽ giữ gìn quy cụ, tôi không dám phạm quy cụ nữa”, chúng sẽ đầu hàng bạn. Ðây là Bạt Triết La Thủ, chẳng những hàng phục được mà còn có âm thanh. Ở trong Ðạo giáo thì có “ngũ lôi oanh đỉnh”. Song trong Ðạo lão họ có ‘chưởng tâm lôi’. Nếu chưởng tâm lôi, dùng tay để chưởng thì có thể có tiếng sấm xuất hiện, tiếng sấm này có thể chấn giữ thiên ma ngoại đạo. Thậm chí tiếng lôi này đến thân thể thì bổ nát thân thể ra. Lúc tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi có nói tôi có người bạn có chưởng tâm lôi, chưởng tay này có tiếng sấm. Ðây là pháp thuật ở trong Ðạo giáo. Trong Phật giáo cũng có, tức là Bạt Triết La Thủ Nhãn này, đây là chưởng tâm lôi của Phật giáo. Bạn tu thành Thủ Nhãn này, tu pháp này thành công thì có tiếng sấm, hàng phục được tất cả oán ma.
    “A Tất Ðà Dạ” dịch ra nghĩa là “vô tỉ thành tựu”, chẳng gì sánh bằng, công đức thành tựu này quá lớn, cho nên mới hàng phục được tất cả oán ma.
    70. Ba Ðà Ma Yết Tất Ðà Dạ.
    71. Ta Bà Ha.

    “Ba Ðà Ma” là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “hồng liên hoa”, “Yết” nghĩa là “thiện thắng”, thắng hết tất cả. Hồng liên hoa (hoa sen đỏ) này thắng hết tất cả, thành tựu tất cả. Hồng Liên Hoa Thủ là Thủ Nhãn thứ hai mươi lăm. Khi bạn tu Hồng Liên Hoa Thủ Nhãn này mà bạn muốn sinh lên cõi trời thì rất dễ dàng sinh về cõi trời; bạn muốn sinh về cõi trời nào thì cũng dễ dàng sinh về cõi đó.
    72. Na La Cẩn Trì Bà Già La Gia.
    73. Ta Bà Ha.

    “Na La Cẩn Trì” : Dịch ra nghĩa là “hiền thủ”. Hiền là Thánh Hiền. Thủ là thủ hộ.
    “Bà Già La Gia”: Dịch ra là “Quán Tự Tại”, “Quán Thế Âm”, còn gọi là “phóng quang”.
    Thủ Nhãn này là “Thí Vô Úy Thủ Nhãn”. Thí Vô Úy Thủ Nhãn này là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng để cứu hộ tất cả chúng sinh, bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều không sợ hãi, không sợ tất cả cảnh giới khủng bố.
    74. Ma Bà Lợi Thắng Yết La Gia.
    75. Ta Bà Ha.

    “Ma Bà Lợi Thắng”: Là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “đại dũng”, tức là dũng mãnh tinh tấn. Còn có lối dịch khác là “anh hùng đức, đại anh hùng”, đại anh hùng có đức hạnh. Ai có thể xưng là đại anh hùng ? Phật có thể xưng là đại anh hùng, Quán Thế Âm Bồ Tát có thể xưng là đại anh hùng.
    “Yết La Gia” dịch là “sinh tính”, và dịch là “bổn tính”. Ý nói bổn lai tự tính của tất cả chúng sinh đều có đại anh hùng đức hạnh. Ðại anh hùng đức hạnh tức là “Tổng Nhiếp Thiên Trí Thủ Nhãn”. Thủ Nhãn này hàng phục được tất cả ma oán trong ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng những hàng phục được ma oán ở thế giới này của chúng ta mà còn hàng phục được ma oán trong ba ngàn thế giới.
    Chúng ta tu 42 Thủ Nhãn, quan trọng nhất là “Tổng Nhiếp Thiên Trí Thủ”, khi bạn tu Tổng Nhiếp Thiên Trí Thủ thì bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia cũng đều bao quát ở trong đó. Bạn nói, vậy chúng ta chỉ tu Tổng Nhiếp Thiên Trí Thủ này thôi, có được chăng ? Nếu bạn lười biếng thì cũng có thể được. Tại sao ? Nếu bạn không lười biếng thì bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia cũng nên tu luôn. Nếu bạn lười biếng, nói rằng tôi muốn tu thành một Bồ Tát lười thì chỉ tu Tổng Nhiếp Thiên Trí Thủ này thôi, cũng bao quát hết bốn mươi mốt Thủ Nhãn kia ở trong đó, cũng được, bất quá thành công chậm hơn một chút. Tại sao ? Vì bạn lười biếng. Bạn lười nên pháp này cũng không thành tựu sớm được. Nếu bạn không muốn thành một Bồ Tát lười thì đừng sợ phí việc, tu nhiều pháp một chút thì tốt.
    76. Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia.
    Câu này đã giảng giải rồi, tuy đã giảng rồi, nhưng có thể giảng lại. Vì có người vốn chưa nghe qua; có người đã nghe rồi mà quên mất không nhớ ; có người thì nhớ mơ hồ, nhớ chẳng rõ ràng; có người nhớ rất rõ ràng, đừng ngại nghe thêm lần nữa thì rõ hơn một chút. Nếu tôi giảng sai thì các bạn có thể đề ra nói với tôi, vì tôi giảng Kinh chẳng giống như người khác, tôi chẳng ghi chép. Có khi tôi giảng Kinh, nếu khởi vọng tưởng thì sẽ giảng sai, hoặc có điện thoại gọi muốn đi nghe cũng sẽ giảng sai. Cho nên giảng Kinh không thể khởi vọng tưởng, cũng không thể tiếp điện thoại.
    “Nam Mô” là “quy y”. Quy y Tam Bảo. “Hắc La Ðát Na” là “Bảo”. “Ða La Dạ” là “Tam”. Tức là thân tâm tính mạng của ta đều quy y Tam Bảo. Người tại gia phải quy y Tam Bảo, tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy y Tam Bảo là tôi muốn đem thân tâm tính mạng đều quy y tận hư không biến pháp giới mười phương ba đời tất cả chư Phật, quy y tận hư không biến pháp giới mười phương ba đời tất cả Hiền Thánh Tăng.
    Tận hư không, hư không đều cùng tận. Biến pháp giới tức là hết thảy pháp giới đều bao quát bên trong, tức là mười pháp giới. Mười pháp giới là pháp giới của Phật, pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của Trời, pháp giới của người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục.
    Mười phương là đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc; trên và dưới cộng lại là mười phương. Ba đời là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Quy y mười phương ba đời tận hư không biến pháp giới tất cả Phật Bảo.
    Pháp Bảo tức là Tam Tạng Kinh điển mười hai bộ, tất cả Kinh điển của Phật nói ra. Pháp Bảo chẳng phải chỉ ở nhân gian của chúng ta có mà tận hư không biến pháp giới đều có. Nếu bạn khai mở ngũ nhãn lục thông thì bạn chân chánh niệm Kinh, niệm “vô tự chân Kinh”, niệm “Kinh không mở miệng”, chẳng dùng miệng để niệm. “Tâm mê Pháp Hoa chuyển”, tâm ngộ chuyển Pháp Hoa”. Trong tận hư không biến pháp giới đều có Kinh điển của Phật nói. Nếu bạn khai mở ngũ nhãn lục thông thì lúc nào cũng đều có thể niệm vô tự chân Kinh, Kinh điển chẳng có chữ, đều ở trong hư không. “Vô tự chân Kinh” chẳng phải nói trong Kinh điển thật sự chẳng có chữ, mà là phàm phu nhìn chẳng thấy Kinh điển này có chữ, phàm phu nhìn không thấy Kinh này mà bạn nhìn thấy được. Bạn thấy ở trong hư không mỗi nơi đều có chư Phật đang ở đó tụng Kinh, đọc Kinh. Có vị đọc “Kinh Pháp Hoa”, có vị đọc “Kinh Lăng Nghiêm”, có vị đọc “Kinh Hoa Nghiêm”, đều đang ở đó đọc Kinh, tụng Kinh, trì Chú, đọc “Chú Lăng Nghiêm”, rất bận rộn những khóa lễ. Ðó là tận hư không biến pháp giới đều có Pháp Bảo.
    Vậy còn quy y tận hư không biến pháp giới tất cả Hiền Thánh Tăng, ai là Hiền Thánh Tăng ? Tất cả đại Bồ Tát, đại A La Hán, đại Tỳ Kheo Tăng đều là Hiền Thánh Tăng.
    “Gia”: Tức là đảnh lễ, chúng ta quy y Tam Bảo phải đảnh lễ Tam Bảo.
    77. Nam Mô A Lị Gia.
    “Nam Mô”: Vẫn là quy y. “A Lị Gia”: Tức là Bậc Thánh. Bậc Thánh tức là Thánh Hiền, quy y tất cả Thánh Hiền.
    78. Bà Lô Yết Ðế.
    “Bà Lô Yết Ðế” dịch ra là “Quán”.
    79. Thước Bà La Dạ.
    “Thước Bà La Dạ”: Là “Tự Tại”; Bà Lô Kiết Ðế Thước Bà La Dạ, nghĩa là “Quán Tự Tại”.
    80. Ta Bà Ha.
    Quán Tự Tại thành tựu tất cả công đức, “Ta Bà Ha”: Tức là thành tựu tất cả công đức.
    81. Án Tất Ðiện Ðô.
    “Án”: Tức là dẫn đến Kinh văn và Chú dưới đây. Ðây là “dẫn sinh nghĩa”. “Án”, ở đây nói là dẫn sinh nghĩa, vì Chú nói ở trước đã xong. Ðây là một ý nghĩa của Chân ngôn.
    “Tất”, là thành tựu ; “Ðiện Ðô” là “ngã giới”, thành tựu ngã giới, thành tựu sự kiết giới của tôi. Chỗ tôi kiết giới vuông tròn tám trăm do tuần. Ở trong phạm vi tám trăm do tuần của tôi đều bình an vô sự, đây là kiết giới lớn, kiết giới vừa khoảng sáu trăm do tuần. Kiết giới nhỏ khoảng bốn trăm do tuần. Ở trong phạm vi tám trăm do tuần của tôi tất cả mọi người đều bình an vô sự, thành tựu tất cả công đức chỗ tôi kiết giới, tức cũng là tất cả nguyện vọng. Ví như tại Tam Phan Thị (San Francisco) tôi kiết thượng giới, ở trong sự kiết giới cuả tôi, không cho phép động đất, không cho phép có tai nạn lớn. Vì ở trong chỗ tôi kiết giới, hộ pháp thiện thần đều phải thành tựu nguyện lực của tôi.
    Vậy tôi kiết giới ở tại Tam Phan Thị (San Francisco) rộng lớn cỡ nào ? Lớn cỡ một hạt bụi. Song một hạt bụi của tôi cũng bao quát vô lượng hạt bụi ; vô lượng hạt bụi tức cũng là một hạt bụi. Cho nên nếu hạt bụi này hư hoại, thì tất cả hạt bụi cũng hư hoại, nếu hạt bụi này không hư hoại thì tất cả những hạt bụi kia cũng không hư hoại, đó là chỗ tôi kiết giới.
    82. Mạn Ða La.
    “Mạn Ða La”: Tức là “đạo tràng”, còn gọi là “pháp hội”, tức là đạo tràng của tôi đây chắc chắn phải thành tựu, pháp hội của tôi đây chắn chắn phải viên mãn.
    83. Bạt Ðà Gia.
    “Bạt Ðà Gia”: Nghĩa là gì ? Tức là “toại tâm viên mãn”. Ví như tôi muốn hạt bụi của tôi đây không hư hoại thì nó không hư hoại. Tôi muốn tất cả những hạt bụi không hư hoại thì tất cả những hạt bụi được toàn vẹn. Tôi niệm “Án Tất Ðiện Ðô Mạn Ða La Bạt Ðà Gia Ta Bà Ha” này, hy vọng Tam Phan Thị (San Francisco) chẳng có động đất, nếu có động đất thì động đất lớn sẽ biến thành nhỏ, nhỏ sẽ biến thành chẳng có. Chẳng có thì mọi người chẳng sợ. Ðó gọi là toại tâm viên mãn; bạn muốn gì thì thành tựu cái đó. Nếu bạn tin thì có sự diệu như thế; còn nếu bạn không tin thì bạn chẳng muốn đắc được sự diệu đó.
    84. Ta Bà Ha.
    “Ta Bà Ha”, tức là “thành tựu”; thành tựu gì ? Thành tựu nguyện vọng của bạn, thành tựu việc bạn thích. Bất cứ bạn hoan hỉ điều gì, nếu bạn niệm “Án Tất Ðiện Ðô Mạn Ða La Bạt Ðà Gia Ta Bà Ha” thì sẽ thành tựu.
    Do đó khi người xuất gia xuống tóc đi tu thì niệm “Án Tất Ðiện Ðô Mạn Ða La Bạt Ðà Gia Ta Bà Ha”. Tức cũng là tất cả đều viên mãn, tất cả đều thành tựu, tất cả đều như ý cát tường.
    Ðã giảng xong Kinh Ðại Bi Ðà La Ni và Chú Ðại Bi, đến đây chấm dứt. Phần sau 42 Thủ Nhãn của Kinh Ðại Bi Ðà La Ni đã giảng rồi lúc trước, không cần phải giảng nữa. Phần sau là khoa hạnh nghi, đó là phương pháp tu hành cũng không cần giảng lại.
    Năm vừa rồi do Quả Ðịa phát tâm muốn nghe Kinh Ðại Bi Ðà La Ni, trải qua thời gian gần một năm, nay mới giảng xong, viên mãn kết thúc. Tôi cũng hy vọng các vị muốn điều gì thì đều toại tâm mãn nguyện, đều có thể “Bạt Ðà Gia Ta Bà Ha”; “Bạt Ðà Gia Ta Bà Ha” là toại tâm mãn nguyện, thành tựu nguyện lực của bạn. Nguyện lực của mỗi người khác nhau, cho nên thành tựu cũng khác nhau. Tôi cũng có một nguyện vọng, tôi hy vọng người nào nghe qua Kinh Ðại Bi Ðà La Ni thì sớm thành Phật đạo. Vì tôi là người tin Phật nên hoan hỉ mọi người thành Phật.
    Nếu bạn thành Phật thì đó là toại tâm mãn nguyện; khi chưa thành Phật thì vẫn chưa toại tâm mãn nguyện.