Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

NHƯ NHƯ(35)-THỌ, YỂU, PHÚ, CÙNG ĐỀU KHÔNG RA KHỎI LUÂN HỒI

THỌ, YỂU, PHÚ, CÙNG
ÐỀU KHÔNG RA KHỎI LUÂN HỒI
(Vạn Phật Thành ngày 6 tháng 6 năm 1982)

Thử nhìn xem những ví dụ lịch sử về kẻ giàu nhất, người sang nhất, kẻ nghèo nhất, và người bần tiện nhất:

"Thạch Sùng phú hậu, Phạm Dũng cùng,
Vận vãn Cam La, Thái Công tảo,
Bàng Tổ thọ cao, Nhan mệnh đoản,
Lục nhân đô tại Ngũ Hành trung."
Dịch là:

"Thạch Sùng giàu sụ, Phạm Dũng nghèo xơ,
Cam La thời trễ, Thái Công vận sớm,
Bàng Tổ sống dai, Nhan Uyên chết yểu,
Sáu người nằm gọn, phạm vi Ngũ Hành."
 Xưa nay, người có tiếng giàu nhất là Thạch Sùng, người đời nhà Tấn; người ta gọi ông là "phú khả địch quốc", giàu bằng cả nước vậy. Có lần Thạch Sùng và người bạn ăn tiệc, người bạn mới lấy trong kho ra một cây san hô cao hai thước tám tấc để cho Thạch Sùng ngắm. Thạch Sùng nhìn rồi nói: "Cái này có đáng gì đâu!" Liền lấy chân đạp nát cây san hô. Người bạn vô cùng buồn rầu nói rằng: "Tôi không biết tìm đâu ra vật quý như cây san hô này, nay lại bị anh đạp nát như vậy thật đáng tiếc quá!" Thạch Sùng nói: "Bạn tiếc làm gì! Cái đó có chi đáng giá! Trong nhà tôi, đầy nhóc thứ rác rưởi đó, mời bạn tới nhà tôi mà xem!" Anh bạn này liền tới nhà coi thử, thì quả nhiên trong nhà Thạch Sùng có cả hàng trăm cây san hô cao ba thước. Thạch Sùng nói: "Bạn tùy ý mà lấy, thích cái nào thì lấy cái đó nhé!"
Cho nên vật mà người bạn coi là quý báu thì đối với Thạch Sùng chẳng có giá trị gì. Ðó là nói rằng ông ta giàu có vô cùng, không cách gì mà biết được.
Phạm Dũng là một người ăn mày, chẳng có đồ vật gì cả. Hằng ngày phải đi ăn xin, có được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, không chịu ra ngoài làm việc, ăn rồi thì lại đi xin nữa. Cho nên nói rằng:

"Gia vô cách túc chi lương,
Thân vô lập chùy chi địa."
Nghĩa là:

"Trong nhà không có lương thực để ăn ngày hôm sau,
Bản thân không có một chỗ để dựng cái chùy."
 Ông ta tới đâu thì chỗ đó là nhà. Tuy rất nghèo, phải ra ngoài để xin ăn, song về sau ông góp nhóp được chút ít lương thực. Có lần Khổng Phu Tử và mấy người học trò bị tuyệt lương ở nước Trần, vì không có gì ăn nên Khổng Tử mới phái người đến nhà Phạm Dũng để mượn gạo. Các vị xem! Khổng Phu Tử là một người có rất nhiều đệ tử mà bây giờ Ngài phải đến một kẻ ăn mày để xin gạo, như vậy không phải là điều đáng buồn cười sao?
Lúc đó Tử Lộ theo lời dạy của Khổng Tử tới nhà Phạm Dũng và thưa rằng: "Thầy của tôi hiện tại chẳng có đồ ăn, bởi vì nước Trần tuyệt hết lương thực, cho nên tôi mới tới đây để mượn một ít gạo."
Phạm Dũng nói rằng: "Bạn muốn mượn gạo cũng được, song tôi có mấy vấn đề hỏi bạn, nếu bạn đáp không được thì tôi không cho mượn." Tử Lộ trong lòng đầy tự tin mới nói rằng: " Ðược, Ngài cứ hỏi đi!"
Phạm Dũng hỏi: "Bạn hãy nói cho tôi nghe: Trong trời đất cái gì là nhiều, cái gì là ít; cái gì là vui vẻ, cái gì là buồn; nếu bạn đáp đúng thì tôi sẽ cho bạn mượn gạo vô điều kiện; nếu bạn đáp không đúng thì tôi không cho bạn mượn gạo. Ðó là điều tôi phải giao ước cho rõ ràng."
Tử Lộ nói: "Câu hỏi dễ quá, thật là hết sức đơn giản! Trong trời đất thì ngôi sao là nhiều mà mặt trăng là ít; vui vẻ là khi đám cưới, buồn bã là khi người chết."
Phạm Dũng nghe xong khoát tay nói: "Chẳng đúng! Chẳng đúng!" Tử Lộ tự nhận thấy lời đáp của mình thật là tuyệt hảo, đúng không chỗ sai, và chẳng có câu trả lời nào có thể hay hơn được. Ông cho rằng Phạm Dũng vì không muốn cho mượn gạo nên tìm cách chối từ; song ông cũng không có cách gì khác, nên đành tức giận bỏ về. Khi gặp Khổng Phu Tử, ông nói: "Thưa Thầy! Tên Phạm Dũng này thật khả ố chẳng biết đạo lý gì cả!" Sau đó Tử Lộ nhất nhất kể lại lời đối đáp của đôi bên cho Khổng Tử nghe. Khổng Tử nghe xong, nói: "Con đã trả lời sai rồi đó!" Tử Lộ kinh ngạc vô cùng, hỏi lại: "Phạm Dũng nói con sai là bởi vì y đứng trên lập trường của y. Thầy phải đứng trên lập trường của con mà nói, tại sao Thầy cũng nói con trả lời sai?"
Khổng Tử đáp: "Con hãy nghe lời ta nói đây: Trong trời đất, kẻ tiểu nhân thì nhiều mà người quân tử thì ít; lúc vui vẻ là lúc cho kẻ khác mượn, lúc buồn bã là lúc mượn kẻ khác! Con hãy trở lại gặp Phạm Dũng mà nói như vậy."
Bấy giờ Tử Lộ trở lại nhà Phạm Dũng và lập lại lời Ðức Khổng Tử. Phạm Dũng nghe xong thì nhận ngay rằng lời đáp thật chính xác vô cùng, cho nên đem gạo lại cho Tử Lộ mượn. Ông lấy đầy một gánh gạo cho Tử Lộ gánh về. Song đòn gánh này là vật bảo bối, gạo bỏ vô rồi thì ăn không bao giờ hết, dùng bao nhiêu nó lại đầy bấy nhiêu; cho hay kẻ nghèo cùng cũng có bảo bối!
Ðời Tần Thủy Hoàng có một vị tên là Cam La, năm 12 tuổi làm Tể Tướng; song đó là đã trễ ba năm rồi, anh ta đáng lẽ phải làm Tể Tướng năm 9 tuổi. Khương Tử Nha lúc 80 tuổi thì gặp Văn Vương; như vậy là đã sớm ba năm rồi, đáng lẽ ông phải gặp Văn Vương lúc 83 tuổi. Cam La còn trẻ đã làm Tể Tướng, mà Khương Tử Nha thì lại đến lúc rất già mới gặp Văn Vương!
Bàng Tổ sống đến hơn 800 tuổi cho nên tuổi thọ rất cao; nhưng Nhan Uyên, đệ tử của Khổng Tử, chỉ sống đến 30 tuổi rồi chết, nên gọi là yểu mạng. Nhan Uyên tuy rằng mạng ngắn nhưng trong các đồ đệ của Khổng Phu Tử, ông là người thông minh nhất. Ông cũng là người hiếu học bậc nhất, chỉ cần nghe qua một là biết được mười, trong khi Tử Cống thì chỉ nghe một biết hai. Lúc Nhan Uyên mất, Khổng Tử vô cùng thương tiếc mà nói rằng: "Thiên táng dư! Thiên táng dư!". Ý nói: Trời làm cho Ðạo ta mất đi vậy! Trời làm cho Ðạo ta mất đi vậy!
Sáu người này có kẻ thì hết sức giàu có, có kẻ vô cùng nghèo khốn, có kẻ sớm có địa vị cao, có kẻ trễ lên quý phẩm, có kẻ hết sức sống lâu, có kẻ lại chết sớm, song sáu người này không ra khỏi vận mệnh của Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Họ đều ở trong vòng Ngũ hành quay đi lộn lại, tuần hoàn trong vòng luân hồi; cho nên nói: "Ðời người thật là như giấc mộng ảo hóa, như giọt sương đầu lá, như ánh điện chớp. Hãy luôn quán chiếu như vậy, và đừng nên chấp trước!" Lúc đó, mình sẽ không có phiền não. Tu hành mà biết thấy suốt rồi buông xả thì càng tốt hơn nữa. Nếu không thể nhất thời buông hết mọi thứ thì phải từng bước từng bước, từng việc từng việc mà buông xả. Ðừng nên lưu luyến ở mãi trong Lục đạo luân hồi này làm gì!
HT Tuyên Hóa

KHAI THỊ 1 CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA RẤT HAY

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU: GHI CHÚ VỀ SỰ LINH NGHIỆM KHI CẦU MƯA Ở CÔNG VIÊN GOLDEN GATE-SAN FRANCISCO


GHI CHÚ VỀ SỰ LINH NGHIỆM KHI CẦU MƯA
Ở CÔNG VIÊN GOLDEN GATE - SAN FRANCISCO
(Do người trong cuộc thuật lại)

        Ở San Francisco và những vùng phụ cận mấy trăm dặm đã xảy ra nạn hạn hán. Trong hai năm liền mưa rất ít, không những gây khó khăn cho việc trồng trọt mà nước uống cũng trở thành vấn đề nghiêm trọng, nên việc dùng nước mỗi ngày bị hạn chế. Vì thế, những người xuất gia và tại gia ở chùa Kim Sơn tự động phát tâm cầu mưa, thực hành hạnh Bồ Tát.
         Vào lúc bảy giờ sáng ngày 16 tháng 12 năm 1977, tại công viên Golden Gate, Thầy Hằng Thực đại diện thiết lập đàn để cầu mưa. Tổng cộng có mấy trăm người tham gia thành khẩn tụng niệm chú cầu mưa. Pháp Hội hết sức trang nghiêm; từ lúc nước Mỹ lập quốc đến nay, đây là pháp hội đầu tiên vậy. Người nào không phải là tín đồ Phật Giáo thì cho là mê tín và chuyện không thể xảy ra được. Khi kết thúc Pháp Hội, mọi người ra về với lòng tin vững chắc là sẽ có mưa xuống. Cổ nhân có câu:

"Tinh thành sở chí, Kim thạch vi khai."
Nghĩa là:

"Lòng thành cùng cực, Vàng, đá cũng tan."
         Cho nên, ngày hôm sau vào khoảng mười hai giờ trưa, bầu trời đang quang đãng trong suốt, đột nhiên mây đen kéo đến, sấm sét nổi lên, và trong khoảnh khắc mưa rơi phủ khắp. Mọi người ai nấy đều hết sức vui mừng.
         Cơn mưa bất ngờ đã làm cho những chuyên gia khí tượng hết sức ngạc nhiên. Có hiện tượng này là do sự "cảm ứng đạo giao": Lòng thành khẩn cao độ của những người phát tâm cầu mưa đã tác động được tâm từ bi của Long Vương, nên dù cho không phải là lúc trời phải mưa, nhưng mưa lại tuôn xuống để cứu độ chúng sinh!
Nạn hạn hán được tiêu trừ sau trận mưa đó. Tin này truyền đi khắp San Francisco, ký giả báo chí và các đài truyền hình đều tới phỏng vấn, chụp hình, quay phim.Chuyện này được loan truyền cho là chuyện hết sức kỳ lạ. Người viết có tham gia Pháp Hội cầu mưa này nên ghi chép lại để các vị độc giả biết.

NHƯ NHƯ(34)-TRÌ CHÚ TRƯỚC TIÊN PHẢI CHÁNH TÂM THÀNH Ý

(Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 1 năm 1981)


"Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn,
Thị giáo lợi hỷ hóa đại thiên.
Sở tác chư pháp tất cứu cánh,
Bất tăng bất giảm đáo Niết Bàn."

Dịch là:

"Tụng trì, thầm niệm, ít nói năng,
Dạy dỗ, lợi vui, khắp nơi nơi.
Mọi việc làm ra đều cứu cánh,
Không tăng, không giảm, tới Niết Bàn."
       Học Chú thì trước tiên cần phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học chú gì cũng thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng, không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược vậy thì mới có cảm ứng.
Nếu không "chánh tâm, thành ý," nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm hại kẻ khác, tức là mình làm chuyện của ma. Pháp của ma vương là hại người, không lợi ích cho ai cả.
        Nếu thật sự muốn tu hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm hại kẻ khác. Phải nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không được học Chú để hàng phục ma quỷ hoặc đi đấu với người khác.
Người theo Phật Giáo không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót.
        Tuy Cơ Ðốc Giáo có nói rằng "ái địch" (thương kẻ địch), nhưng đó chỉ là trên phương diện ngôn ngữ, thực sự họ có thể hiện được trong hành động không? Họ luôn luôn xem người Phật Giáo như kẻ địch, họ có thương yêu những người Phật Giáo không? Chắc chắn là không, vì họ gọi người Phật Giáo là nghịch đồ, là ma quỷ!
       Tôn chỉ hết sức trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
      Chú Lăng Nghiêm là chú kinh thiên động địa, khiến quỷ thần phải run sợ, là linh văn hết sức hiệu nghiệm. Học Chú Lăng Nghiêm rồi thì phải luôn luôn phát tâm từ bi, cử tâm động niệm không được làm hại người khác. Nếu ai đối với mình không tốt cũng đừng khó chịu, đừng oán ghét. Tâm mình cần phải rộng lớn như ba ngàn thế giới vậy, vạn vật đều có thể chứa gọn trong tâm mình; đó chính là bản sắc của người Phật tử vậy!
       "Tụng trì, mặc niệm, thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" (Nhân đa la) dịch nghĩa là tụng trì, hoặc là mặc niệm, hoặc thiểu ý ngôn; tức là mình không cần nói nhiều, cũng không vọng tưởng nhiều, chuyên tâm thì linh, tán loạn thì không cảm ứng.
        Thế nào là chuyên nhất? Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có tâm làm hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức nguy hiểm; bởi vì: "Ða hành bất nghĩa tất tự tệ." (Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa, thì mình sẽ tự tiêu diệt mình.)
        Mình hại kẻ khác tức là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người, thì có kẻ chắc chắc sẽ giết cha mình; mình giết anh người thì sẽ có kẻ giết anh mình; đó là luật nhân quả. Là Phật tử thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác, thì sẽ tránh được quả ác trong tương lai.
"Thị giáo lợi hỷ hóa đại thiên." Câu này nói rằng lấy Phật Pháp chỉ dẫn, giáo hóa chúng sinh, làm cho tất cả mọi người đạt được chỗ lợi ích, hoan hỷ. Khi thấy có chuyện gì lợi ích cho người khác thì mình làm ngay:

"Tài bồi tâm thượng địa,
Trưởng dưỡng tánh trung thiên."
Dịch là:

"Vun bồi miếng đất tâm linh,
Nuôi lớn bầu trời bản tánh."
        Thường giúp kẻ khác thì lâu ngày tự nhiên sẽ có đức hạnh. Không phải chỉ kêu gọi người khác làm lợi ích cho mình, mà tự mình không làm lợi ích kẻ khác. Kẻ nuôi dưỡng tánh ỷ lại và chỉ muốn tận hưởng tiện nghi là kẻ không có khí phách.
       Hãy xem trên đời này, những kẻ chuyên đi tìm tiện nghi cho mình kết quả đều thất bại; nếu các vị không tin thì hãy nghiên cứu cho kỹ lưỡng. Bất luận là ai, với lòng tham không đáy, chuyên đi tìm tiện nghi cho chính mình thì kết quả đều không tốt. Nếu mình đem lại lợi ích cho người khác, làm cho mọi người hoan hỷ, thì đi tới đâu ai ai cũng kính phục mình.
       Khổng Tử nói rằng: "Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.)
       Một lời nói ra thì phải thành thật, không được gian trá, lừa dối kẻ khác. Hành vi thì phải hết sức thành thực, trung hậu, khiêm nhường, cung cẩn. Bất cứ làm việc gì cũng có lòng "khiêm cung hòa kiết"; không được cống cao ngã mạn, coi mình như ông trời, không ai sánh bằng. Như vậy thì không thể chấp nhận được!
HT Tuyên Hóa

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU-PHẦN 1(trích HT Tuyên Hóa cuộc đời và sự nghiệp)

Phần I: Tu Hành Tại Trung Quốc
 
1. Thừa nguyện trở lại.
Hòa Thượng, Thượng Tuyên Hạ Hóa sanh vào Ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), một Thôn nhỏ Huyện Song Thành Tỉnh Mãn Châu, Trung Hoa; Thân phụ là cụ Ông Bạch Phú Hải vốn là một nông phu chất phát; Thân mẫu là cụ Bà Hồ Thị là một Phật tử thuần thành cả đời ăn chay niệm Phật. Ông Bà đã có bốn trai ba gái nay lại được thêm một út trai thật đúng như ý nguyện.
Điểm khác lạ là vừa mới sơ sinh Ngài đã khóc trong ba ngày liên tiếp. Cụ Ông châu mày bồn chồn lo lắng, cả nhà thì bối rối không yên. Cụ Bà cảm giác rằng đứa bé vừa hạ sanh tất không phải người thường, nhân trong đêm chuyển dạ lâm bồn Bà có một giấc mộng diệu kỳ. Bà mơ thấy Phật A Di Đà hiện thân, từ đôi mắt phóng hào quang vàng soi sáng cùng khắp thế giới và làm cho trời đất chuyển động, mục kích cảnh tượng này bà cảm thấy thân tâm tĩnh lặng, và chợt giật mình thức giấc xoay nhìn khắp bốn phía vách nhà mới biết đó chỉ là giấc mộng khiến bà không khỏi luyến tiếc, nhưng khi ngẫm lại thì cũng không phải là mộng vì cảm thấy có hương thơm phảng phất căn phòng hồi lâu mới hết; cho nên Bà lại niệm Phật càng rõ tiếng hơn. Sau đó không lâu Bà hạ sanh một bé trai, tức là Pháp sư An Từ tự Độ Luân và cũng là Hòa Thượng Tuyên Hóa sau này.
 
2. Lập chí tu hành.
Hòa Thượng được nuôi dưỡng trong gia đình hiền đức và lớn lên trong một ngôi làng yên tĩnh ở miền quê. Nhiều người trong làng đã dời đi nơi khác để tầm danh cầu lợi nên cửa nhà thưa thớt, đường xá vắng bóng người, dân làng sống trong cảnh tĩnh lặng, an nhàn. Vì thế khi lên mười một tuổi Ngài chưa từng thấy qua người chết. Cho đến một hôm đang lúc cùng các bạn trẻ trong thôn vui đùa chạy ra ngoài đồng hoang vắng Ngài chợt thấy một đứa bé bọc trong manh chiếu bị bỏ trong bụi rậm, miệng nó ngậm và mắt thì nhắm nghiền. Bọn trẻ liền chạy tới lay gọi nó nhưng đứa bé không động đậy, Ngài không biết em bé này tại sao như thế liền hỏi một người lớn thì được cho biết rằng:
- Nó đã chết!
Ngài vẫn chưa hiểu nghĩa chữ CHẾT là gì? nên vội chạy về nhà hỏi mẹ, Mẹ Ngài bảo:
- Phàm là người ai cũng phải chết, có người chết già có người chết vì bệnh có người chết vì tai nạn, bất luận người giàu cũng như người nghèo hoặc người làm quan kẻ đi buôn người làm ruộng hay nhân công dầu có quyền uy chức phận chi nữa mọi người rồi cũng phải chết.
Càng lấy làm lạ Ngài lại hỏi:
- Nhưng thưa mẹ! vậy có cách nào để khỏi phải chết không?
Lúc đó có một vị Tu đạo đang viếng thăm gia đình Ngài, nghe Ngài hỏi liền đỡ lời:
- Có chứ con phải tu đạo, đó là cách duy nhất; con phải hiểu thấu bổn tâm, giác ngộ bản tánh của mình thì mới mong vĩnh viễn thoát ly luân hồi sanh tử.
Câu trả lời này đa số người nghe đều ít hiểu đạt, mặc dầu tuy chỉ mười một tuổi Ngài không những nghe xong liền hiểu mà còn lãnh ngộ ngay đạo lý thâm sâu này. Lời người khách đã in sâu vào tâm khảm Ngài. Sau đó Ngài quyết tâm xuất gia tu đạo. Khi Ngài trình ý định xuất thế của mình lên Mẹ thì Mẹ Ngài bảo rằng:
- Xuất gia là việc bố thí cao thượng cũng là việc khó làm nhất nếu con có căn lành cùng sự quyết chí thì con sẽ đạt được đạo quả. Mẹ rất vui mừng vì lời nguyện và ý chí của con đã ấn chứng cho giấc mơ kỳ diệu của mẹ thuở xưa, nhưng nay mẹ đã già, hẳn không còn sống bao lâu. Bốn người anh và ba người chị con đều đã lập gia đình, Mẹ hy vọng con ở lại để phụng dưỡng cha mẹ đến lúc cha mẹ qua đời thì con xuất gia cũng không muộn.
Ngài đã tôn trọng lòng mong ước của mẹ tạm gác lại ý nguyện xuất gia và thường theo mẹ Lễ Phật, Tụng Kinh. Từ đó hạt giống bồ đề trong tâm Ngài càng tăng trưởng.
 
 3- Vang danh hiếu tử.
Hạt giống bồ đề trong tâm Ngài ngày một đâm sâu, tuy tuổi còn nhỏ nhưng Ngài đã biết hồi quang phản chiếu. Lúc đầu Ngài tự phản tỉnh tính can cường của mình, nếu bị người khác chọc giận, Ngài chỉ biết la khóc thôi. Một khi đã khóc rồi thì khó mà ngưng được khiến cho cha mẹ khó phương đối trị. Sau đó tánh nết lại cứng cỏi hơn là không chịu ăn uống gì hết làm cho cha mẹ lại thêm phần sầu não. Lúc nhớ lại những khi không biết hiếu thảo với cha mẹ, thâm tâm Ngài rất ư hối hận. Ngài quyết định dùng hành động để sám hối những tội lỗi xưa. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng Ngài nghĩ ra một phương pháp là mỗi sáng mỗi chiều, đều hướng về cha mẹ mà lễ lạy. Lúc vừa bắt đầu lạy thì cha mẹ Ngài liền la rầy quở trách, hỏi tại sao mà làm như thế, thì Ngài thưa rằng:
- Xưa kia con không biết hiếu thảo với cha mẹ, nay biết rõ như thế là không phải đạo làm con. Vì thế con nay bắt đầu lạy cha mẹ để biểu thị lòng ăn năn hối cải của con.
 Cha Ngài bảo:
- Biết rõ lỗi rồi nên sửa đổi, không cần phải lễ lạy.
Nhưng Ngài vẫn kiên trì giữ nguyện nhất định phải làm; Thế nên cha mẹ Ngài nghĩ rằng:
- Người kề cái chết thường nói những lời lành, có lẽ đứa con này sống chẳng được bao lâu nữa rồi!
Vì vậy mỗi lần Ngài lạy; Ông Bà cụ đều rơi lệ. Sợ cha mẹ quá thương tâm, Ngài bèn ra sân vào mỗi sáng tinh sương khi mọi người còn đang an giấc, Ngài hướng về cha mẹ lạy mỗi người ba lạy. Khuya đến khi mọi người đều lên giường ngủ Ngài lại ra ngoài hướng về cha mẹ mà lễ mỗi người thêm ba lạy nữa. Lạy như vậy qua một thời gian, Ngài cảm thấy vẫn chưa đủ nên lạy thêm trời, bấy giờ Ngài không biết tên của các vị thiên chủ, địa chủ, nhân chủ, mà chỉ biết trời, đất, quân thần, thân tộc sư trưởng. Thế nên mỗi sáng mỗi tối, Ngài lạy trời, đất, vị nguyên thủ quốc gia, cha mẹ và vị Thầy tương lai mỗi vị ba lạy. Sau đó Ngài lại lễ thêm đến tất cả người tốt, người xấu trên toàn thế giới. Ngài cầu mong những người đại ác, bại hoại xấu xa đều cải ác làm lành trở thành người tốt. Ngài cứ gia tăng mãi cho đến tám trăm ba mươi lạy, mỗi ngày sáng, tối hai thời, mỗi thời hai giờ rưỡi. Như vậy Ngài lạy năm giờ bất kể trời sương mưa gió tuyết.
Ngài hết lòng chăm sóc thân sinh và thân mẫu; mùa hè Ngài hầu quạt cho cha mẹ còn mùa đông Ngài sưởi ấm giường nằm cho Ông Bà cụ. Ngài phụng dưỡng cha mẹ như phụng dưỡng hai vị Phật sống, cho nên danh tiếng hiếu thảo của Ngài vang đồn khắp nơi, mọi người trong làng, đều tôn xưng Ngài là “Bạch Hiếu Tử,”  tức người con chí hiếu họ Bạch.
 

NHƯ NHƯ(33)-NIỆM QUÁN ÂM TRONG TỰ TÁNH

     Nay chúng ta chuyên tâm một lòng niệm Ngài Quán Âm Bồ Tát, vậy ta cũng phải niệm Ngài Quán Âm trong tự tánh của chúng ta. Chúng ta phải nghĩ rằng ở bên ngoài có cái gì, bên trong cũng có cái đó, như ở bên ngoài có Quán Thế Âm Bồ Tát thì bên trong cũng có Quán Thế Âm Bồ Tát. Bởi vậy, khi niệm Ngài Quán Âm thì ta phải làm sao niệm cho trong và ngoài là một, không phải hai.
     Trong tự tánh của chúng ta, đã gồm đủ mọi đức tánh của vô lượng chư Phật đông như số cát sông Hằng, cho nên khi miệng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì trong lòng cũng phải chí thành tha thiết, mọi tạp niệm đều chẳng sanh, mọi vọng niệm đều dứt bặt, và chỉ nhất tâm chuyên chú vào niệm. Không mong ước điều gì, không tham một sự gì, cũng chớ nên có ý nghĩ: "Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để làm gì?" Phải coi việc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát chính là một tự tánh bổn phận.
     Chúng ta niệm đến trình độ "niệm mà chẳng niệm, chẳng niệm mà niệm," đó là cảnh giới tự tánh Quán Thế Âm hiện tiền, kết thành một khối, quên người quên mình, như vậy còn chỗ nào là phiền não nữa? Còn chỗ nào là vô minh? Ðến cảnh giới vô ngại tự tại thì đại viên kính trí sẽ hiển lộ, bình đẳng tánh trí sẽ hiện tiền, rồi diệu quan sát trí cũng như thành sở tác trí đều đầy đủ. Có đủ bốn trí, nhưng chỉ mới tới giai đoạn đầu, bởi trong bốn trí còn trăm ngàn vạn loại khác nhau tùy theo từng giai đoạn. Chẳng phải mới thấy các trí xuất hiện mà cho rằng chúng cùng với bốn trí của chư Phật là giống nhau. Bất luận ở giai đoạn nào, tới được quả vị nào, thứ bậc không phải nhất loạt ngang nhau.
      Người tu hành phải hiểu rõ ý nghĩa "sai một ly đi một dặm," phải tự nhắc mình dụng công đi đúng hướng, tránh rẽ ngang, khỏi đi vào bàng môn ngoại đạo, và lầm vào tình trạng tà tri tà kiến. Phải luôn luôn giữ chánh tri chánh kiến, tức chánh niệm mới hiện tiền.
Chúng ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tức là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát của chúng ta chớ không phải niệm Quán Thế Âm Bồ Tát của người khác. Thế nào gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát của ta? Chính là ta với Quán Thế Âm Bồ Tát là cùng một thể, niệm như vậy, nghĩa là ta cũng có đức từ bi, cũng có hỷ xả của Quán Thế Âm Bồ Tát, và cũng đầy đủ "bẩy nạn, hai cầu," cũng ba mươi hai ứng thân như Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
HT Tuyên Hóa

NHƯ NHƯ(32)-NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

      Ngày hôm nay, quý vị tập họp tại đây, dự Quán Âm thất, để cùng nhau niệm thánh hiệu: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Ðây là một dịp quý báu, hy hữu, chớ có uổng phí thời gian. Nếu như có lòng coi thường thì sẽ chẳng ích lợi gì, như người đã vào tới bảo sơn mà trở về tay không, rất là đáng tiếc. Mong rằng quý vị buông bỏ hết mọi thứ để dũng mãnh niệm với một lòng tinh tấn, nhất định quý vị sẽ thấy cảm ứng, và có như vậy mới không cô phụ mục đích tổ chức Quán Âm thất này.
       Bình thường khi vào thất Quán Âm, phần đông đều niệm Phật, niệm Bồ-tát, sau đó nghỉ nửa giờ rồi mới tiếp tục công phu. Tại Hương-cảng hay Ðài-loan, đại khái mọi người niệm theo cách thức đó. Chúng ta ở Vạn Phật Thành này sẽ niệm một cách liên tục, không ngưng nghỉ, luôn một mạch từ sáng sớm tới tối, ở giữa không có thời gian nào nghỉ cả.
Quý vị nên biết rằng, chẳng phải chúng ta không nghỉ ngơi mới đúng, hay mọi người nghỉ ngơi là sai. Nói như vậy nghĩa là sao? Bởi vì chúng ta từ trước tới nay chưa hề dụng công, cho nên bây giờ phải hết sức tinh tấn, ráng hết sức để mà tiến tới. Còn như người khác thì họ đã dụng công từ lâu rồi, họ đã vào đạo, họ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát hay không niệm cũng vậy thôi, họ đều không có vọng tưởng, do đó họ nghỉ ngơi còn hơn chúng ta tinh tấn.
      Giả sử chúng ta lại sanh tâm ngã mạn nghĩ rằng: "A! Chúng ta ở Vạn Phật Thành tu hành rất là dũng mãnh và tinh tấn, còn người ta thì giải đãi, lười biếng." Nếu có ý nghĩ đó thì tất cả công đức của chúng ta đều bị tiêu ma. Ðó chính là tâm tự mãn, tâm kiêu ngạo. Chúng ta nên hiểu rằng họ đã dụng công tu hành từ vô lượng kiếp, nay họ nghỉ ngơi chính là chờ đợi số người của chúng ta đương lẽo đẽo theo sau. Nghĩ được như thế thì đúng, và dụng công mới có kết quả tốt, chớ không thể dụng công mà nẩy sanh tâm chướng ngại. Tâm chướng ngại chính là lòng tự mãn, lòng kiêu mạn, có thể phương hại tới hạt giống Bồ-đề. Chúng ta dụng công phải ghi nhớ điểm này. Bất luận trong trường hợp nào, phải tránh cho kỳ được tâm cống cao, ngã mạn, và tránh có ý nghĩ ích kỷ tự lợi, mà phải theo đúng câu: "Pháp là bình đẳng, không có cao thấp," đó chính là châm ngôn của kẻ tu hành.
       Khởi đầu dụng công, chúng ta phải giữ tâm cho chánh đáng. Không chánh đáng thì dù công phu ra sao cũng thành ma đạo. Tâm đã chánh đáng, thì dụng công cách gì cũng có thể thành Phật. Con đường dẫn tới Phật hay tới ma chỉ khác nhau ở một niệm. Quý vị hãy đặc biệt chú ý.
       Tại sao chúng ta phải niệm: Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát? Bởi vì đối với chúng sanh ở cõi Ta-bà Ngài đều có nhân duyên. Ngài là vị Bồ-tát tầm thanh cứu khổ và cứu nạn. Có người nghĩ rằng: "Khi nào chúng ta gặp khổ và gặp nạn chúng ta mới cần cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, bây giờ không gặp cảnh khổ cũng không gặp cảnh nạn thì niệm danh hiệu của Ngài làm gì?" Nói vậy hóa ra chúng ta chẳng khổ chút nào ư? Ðây là ngũ trược ác thế -kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mệnh trược - các chúng sanh đều bị khổ cả, khổ không thể nói hết. Rồi trong vòng luân hồi, các chúng sanh lên lên xuống xuống, vậy mà không phải khổ sao? Một ngày, từ sáng tới tối trong tâm toàn là vọng tưởng thôi thúc, đấy chẳng phải là cảnh khổ ư? Rồi lo âu cho riêng mình, muốn có lợi cho riêng mình, nhưng lo không được thì ngủ không an; cầu chẳng được thì ăn không ngon. Vậy mà nói là chẳng khổ ư? Ai dám đoan quyết rằng mình chẳng khổ? Họ chẳng khổ vì điều này thì lại khổ vì điều khác, tóm lại khổ bất ly thân. Trừ phi vạn sự đều buông bỏ, chẳng cầu điều gì họa may mới không khổ.
       Chúng ta niệm câu Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, thì trước hết chúng ta phải hiểu ý nghĩa câu này. Nam mô là tiếng Phạn, có nghĩa là quy mạng, Quán là quán sát, lấy diệu quan sát trí để quán sát. Ai có diệu quan sát trí? Ngài Quán Thế Âm, vì Ngài có loại trí huệ đó, cho nên đối với hết thảy mọi âm thanh của thế gian Ngài đều hay, đều thấy, không hề bị lầm lẫn. Chữ Thế là chỉ thế gian. Âm là âm thanh. Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát tu pháp môn phản văn văn tự tánh, cho nên Ngài dùng tâm để quán sát tiếng kêu cứu của các chúng sanh trong thế gian. Khi Ngài nghe được sẽ tức khắc phân thân đến nơi để cứu độ nạn nhân ra khỏi bể khổ, thoát được khổ và được vui sướng, cho nên có câu kệ rằng:
Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng,
Khổ hải thường tác độ nhân chu.
Nghĩa là:
Ngàn nơi cầu, ngàn nơi ứng,
Ngài là thuyền vớt người trong bể khổ.
       Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như các bậc mẹ hiền, con cái cầu mẹ thì sẽ được mẹ cứu, không dến nỗi bị thất vọng bao giờ. Cho nên Ngài có danh hiệu là Ðại Từ Ðại Bi Quảng Ðại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
       Chữ "Bồ-tát" có một nửa là tiếng Phạn, nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa [Bodhisattva], dịch nghĩa thành Giác-hữu-tình hay Hữu-tình-giác, cũng nghĩa tương tự. Giác là giác ngộ, hữu tình chỉ chúng sanh. Giác-hữu-tình tức là một chúng sanh trong số người giác ngộ, hoặc kẻ giác ngộ trong số chúng sanh. Bồ-tát thuộc hàng thánh tự giác giác tha - tự mình giác ngộ và giúp người khác giác ngộ - không tự tư tự lợi, một lòng chỉ nghĩ tới hạnh phúc của chúng sanh, mà quên lợi ích của riêng mình. Ðó chính là tinh thần vô ngã.
      Như chúng ta muốn cầu Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát giúp đỡ và phù hộ cho mình thì chúng ta phải thực lòng niệm: Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, lúc đó trong lòng mới thành khẩn và tác dụng cảm ứng mới phát sanh ra được, lúc đó Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ nghe tiếng kêu cầu và tới nơi để cứu độ chúng ta ra khỏi bể khổ. Ngược lại nếu sự kêu cầu không thành tâm, hay lẫn lộn với những ý tưởng cầu danh cầu lợi, thì chẳng thể có cảm ứng.
      Nay chúng ta niệm thánh hiệu: Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, ta nên giữ lòng thanh tịnh, niệm một cách khẩn thiết và chí thành, không vì lợi ích riêng tư mà niệm, mà chính vì lợi ích cho tất cả chúng sanh trong cõi ngũ trược ác thế này. Chúng ta cầu Ngài rủ lòng từ bi tế độ, khiến cho toàn thể nhân loại trên thế giới khỏi ách nạn, tội diệt phước sanh, tất cả đều được lợi ích.
       Tất cả mọi người cùng niệm Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát và cùng hướng theo một tôn chỉ như vậy, ắt sức mạnh cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Nào! Quý vị hãy đem mọi công đức niệm thánh hiệu hồi hướng tới khắp chúng sanh trong pháp giới! Chính là:
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Ðệ tử và chúng sanh,
Ðều trọn thành Phật đạo.
 HT Tuyên Hóa khai thị nhân khóa Quán Âm thất tại Ðiện Quán Âm,
Vạn Phật Thánh Thành, từ ngày 5 đến ngày 11 tháng 10 năm 1981

NHƯ NHƯ(31)-THẦN CHÚ ĐẠI-BI, NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

        Hôm nay bắt đầu vào thất Ðại Bi. Buổi tối sau lễ sái tịnh sẽ tụng Ðại Bi Thần Chú. Trong quá khứ, số chư Phật nói chú này nhiều bằng chín mươi chín ức số cát sông Hằng và Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát vì thương hết thảy mọi loài chúng sanh, nên phát tâm đại bi, cưỡi thuyền từ bi trở về cõi Ta-bà để cứu độ tất cả chúng sanh ra khỏi cảnh khổ ách. Có câu: "Bể khổ không bờ, quay đầu là bến," chỉ cần chúng ta kiền thành trì tụng Ðại-bi Chú ắt sẽ thấy ứng nghiệm, không thể nghĩ bàn.
       Trước đây trong vô lượng kiếp, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát được Thiên Quang Vương Tĩnh Trú Như-lai diễn pháp Ðại-bi Thần Chú cho nghe, lấy bàn tay sắc vàng xoa đầu, khiến Ngài, khi nghe xong liền chứng được quả vị Bồ-tát bậc Bát-địa. Ngài liền sanh tâm đại hoan hỷ rồi lập tức phát nguyện lớn như sau: "Nếu tôi có thể làm lợi ích hết thảy chúng sanh, thì xin cho tôi có ngay ngàn tay và ngàn mắt." Phát nguyện xong, hốt nhiên trái đất chấn động, hào quang phát ra từ chư Phật mười phương chiếu sáng thân Ngài, rồi ngàn tay và ngàn mắt tức khắc trang nghiêm thân tướng của Ngài. Tay thì có thể nâng đỡ, mắt thì có khả năng chiếu soi. Ngàn tay và ngàn mắt tượng trưng cho vô số thần thông và trí huệ.
Ý nghĩa của đại bi: Căn cứ câu: "Bi năng bạt khổ," bất cứ ai gặp phải mọi cảnh khổ nạn, nếu thành tâm tụng Chú Ðại-bi đều có thể được bình an, chuyển hung thành cát. Ngài Quán Thế Âm bạch Phật rằng: "Nếu như chúng sanh trì tụng Ðại-bi Chú mà không được mãn nguyện, thì xin thề không thành chánh giác, trừ phi nguyện ước của họ bất thiện hay không thành tâm trì tụng."
      Trì tụng Ðại-bi Chú không những được tự tại, mà các điều cầu mong còn được thành tựu; có thể tránh được khổ ách tai nạn và được vui sướng an lạc; vượt qua mọi hiểm nghèo, tới chỗ bình an vô sự. Làm sao có thể xa lìa khổ ách? Phải tụng Ðại-bi Chú. Làm sao thoát khỏi hiểm nghèo? Phải trì tụng Ðại-bi Chú. Chớ có coi Ðại-bi Chú là tầm thường hay đơn giản. Tôi xin nói với quý vị rằng nếu quả trong đời quá khứ và hiện tại quý vị không có căn duyên tốt lành thì ngay đến cả cái tên của Chú Ðại-bi cũng chưa được nghe, đừng nói tới việc trì tụng. Nay không những quý vị được nghe biết tên của Chú lại còn được trì tụng Chú với một lòng chí thành như vậy, thật là một cơ hội trăm ngàn vạn kiếp mới có một lần, rồi lại được thiện tri thức chỉ dẫn, cách thức đọc tụng, thọ trì, tu trì nữa. Thật đáng cho quý vị coi trọng! Tóm lại, Ðại-bi Chú có những lợi ích không thể nghĩ hết được.
       Trong thời gian bẩy ngày này, chúng ta nên thành tâm thành ý, rất mực cung cung kính kính trì tụng Chú Ðại-bi, tụng cho tới độ tâm không vọng tưởng. Lúc đó, lòng lắng trong, hoặc giả có người thấy hào quang, có người thấy hoa xuất hiện, có người được Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát rờ đầu, giúp cho khai mở trí huệ. Hoặc giả có khi ngửi thấy mùi hương lạ, cũng có người dù đã tha thiết chí thành trì tụng, nhưng cũng chẳng thấy một hiện tượng gì khác lạ. Dầu có hay không cũng chớ có nản lòng, cứ hết sức dốc một lòng trì tụng. Khi nào thời khắc tới, sẽ nhất định chứng kiến cảnh giới "cảm ứng đạo giao," xuất hiện ngay trước mắt.
       Bất luận thấy cảnh giới nào, hay chẳng thấy gì hết, việc chánh vẫn là tinh tấn trì tụng. Kẻ thấy điềm lành chẳng nên chấp vào tướng lành đó. Kẻ không thấy điềm gì cũng đừng sanh lòng tự ti mà tự bảo rằng: "A ! Vậy là ta chẳng có thiện căn, sao ta chẳng thấy Bồ-tát?" Thiện căn có khi sớm kết thành quả, có khi thì muộn. Nếu như có cảm giác thiện căn của mình chưa đến lúc thành thục, thì ta phải tiếp tục bồi đắp, làm thêm nhiều công đức nữa mới được. Người ta nói: "Chưa trồng căn lành, phải trồng căn lành; đã trồng căn lành, khiến nó tăng trưởng; đã tăng trưởng rồi, khiến nó thành thục; đã thành thục rồi, khiến tới giải thoát."
       Quý vị lần đầu tới Kim Sơn Thánh Tự, nghiên cứu Phật pháp, tu tập Phật pháp, phải dốc lòng thành học tập, không ngại khổ, không ngại khó. Ở đây trong vòng bảy ngày, nên dũng mãnh tinh tấn, xa lìa vọng tưởng. Nếu lại vừa học tập, vừa nghĩ ngợi lung tung, công phu không thể chuyên nhất được. Tâm không chuyên nhất thì khó lòng sanh cảm ứng. Ðó là một điều, quý vị phải đặc biệt chú ý!
       Những lợi ích của công phu trì tụng Ðại-bi Chú, nói ra không thể hết được. Phàm ai đã trì tụng Ðại-bi Chú thì tuyệt đối chẳng bị đọa vào ba đường ác. Nếu bị đọa vào các đường ác đó thì Ngài Quán Thế Âm nguyện chẳng bao giờ thành Phật. Phàm ai ngu si mà trì tụng Ðại-bi Chú, nếu chẳng biến thành kẻ trí huệ, Ngài Quán Thế Âm cũng nguyện chẳng thành Phật. Thần Chú Ðại-bi lại có thể trị tám vạn bốn ngàn loại tật bệnh của thế gian. Ai bị bệnh nan y, cho đến các y sĩ, Tây y hay Ðông y phải bó tay, nhưng nếu thành tâm trì tụng Ðại-bi Chú cũng nhất định chẳng uống thuốc mà được khỏi bệnh. Thần hiệu của Ðại-bi Chú thật không thể nghĩ bàn!
      Tại Kim Sơn Thánh Tự có người đã từng được sự ứng nghiệm như vậy. Chữa trị chứng ung thư chẳng phải là chuyện dễ dàng, vậy mà trì tụng Ðại-bi Chú khiến cho bệnh tiêu tan. Thần lực của Chú Ðại-bi thật mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Chỉ cần xem công phu của quý vị trong bảy ngày ra sao, ai thành tâm, người đó sẽ thấy ứng nghiệm, được lợi ích. Ai có bệnh, bệnh sẽ lui. Ai không bệnh, thì trí huệ được khai mở. Cầu chuyện gì được chuyện đó, cho nên Ðại-bi Chú gọi là bất khả tư nghì quảng đại linh cảm, vô ngại đại bi tâm đà-la-ni. Chữ đà-la-ni (Dharani) dịch nghĩa là tổng trì, tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa, cũng gọi là chú, hoặc gọi là chân ngôn. Tóm lại đó là những chữ mật.
Mật chú gồm có bốn ý nghĩa sau:
      Trong bài chú có tên vua các loài quỷ thần, nên phàm tiểu quỷ nghe đến tên này thì không dám làm bậy và phải tôn trọng phép tắc,
Chú được coi như khẩu lệnh trong quân đội, nếu vi phạm ắt sẽ bị trừng trị,
Chú có thể âm thầm tiêu trừ nghiệp tội mà chính mình không hay biết,
Chú là ngôn ngữ bí mật của chư Phật, chỉ có chư Phật mới hiểu được mà thôi.
Quý vị lần này tới tham dự pháp hội Ðại-bi, đều có sẵn căn lành cả, đức hạnh đầy đủ lại được nhân duyên thành thục nên mới tới Chùa Kim Sơn Tự. Hy vọng rằng một khi đã vào tới "bảo sơn" rồi thì không đến nỗi tay không trở về, tất phải được bảo vật để dùng cho mình. Bảo vật gì? Chính là Chú Ðại-bi. Ðại-bi Chú có thể trị bệnh, có thể hàng phục loài ma, có thể khai mở trí huệ, có thể mang lại sự bình an, hay nói cách khác, cầu việc gì được việc ấy, nhất định toại lòng xứng ý.
       Kỳ pháp hội Ðại-bi này còn đặc biệt hơn nữa là tại Trung-quốc rất hiếm có khóa tụng Ðại-bi có tính cách kỷ lục, kéo dài cả bẩy ngày luôn như vậy. Tại các nước khác người ta có niệm Chú Ðại-bi trong bẩy ngày không, điều này tôi không biết, nhưng tại Mỹ, tôi nghĩ rằng đây là lần đầu tiên. Mong tất cả quý vị hết sức chân thành trì tụng Ðại-bi Chú, công đức vô lượng!
HT Tuyên Hóa giảng ngày 9 tháng 4 năm 1976, tại Kim Sơn Thánh Tự


Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

NHƯ NHƯ(30)-CHÚ ĐẠI BI TIÊU TRỪ TAI NẠN

Sự lợi ích chân chính thường khó diễn bày.
Giống như người uống nước,
lạnh hay nóng chỉ tự mình biết.

      Ngay trong lúc thời tiết nóng bức tột độ mà quý-vị không sợ nóng cũng chẳng sợ đường xa núi cao, tới đây tham gia đả thất thì như vậy có điều gì lợi chăng? Sự lợi ích chân chính thường khó diễn bày. Giống như người uống nước, lạnh hay nóng chỉ tự mình biết. Duy người có tâm chân thật mới lãnh hội được sự diệu kỳ.
Làm thế nào để thu hoạch được điều lợi ích này? Không gì khác hơn là thành tâm niệm danh hiệu Bồ-tát. Chân tâm tức là chuyên tâm vậy. Cho nên nói: "Chuyên nhất tất linh, phân chi tất tệ." Tức là chuyên nhất thì linh ứng, phân chia thì bế tắc. Khi tâm chuyên nhất, tự nhiên sẽ được cảm ứng đạo giao. Sự cảm ứng đạo giao vốn không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, tự mình phải dụng công mới được, người khác không thể làm thay mình đặng, lại càng không thể cầu may mà được.
Giống như "nói về chuyện ăn cơm hay đếm tiền giùm kẻ khác." Có kẻ thường hay đề cập đến những thứ dinh dưỡng thế này thế nọ, nhưng tự họ chẳng hề ăn, thì đồ ăn dù có bổ dưỡng cách mấy đi nữa họ cũng không thể tận hưởng được. Cho nên nói:
Chung nhật sổ tha bảo, tự vô bán tiền phần.
Y pháp bất tu hành, kỳ quá diệc như thị.
      Nghĩa là:
Suốt ngày đếm tiền người, tự mình không một xu.
Học pháp không tu hành, lỗi lầm cũng như vậy.
      Mình niệm Phật cũng thế. Không phải hiểu biết hay bàn luận về công đức niệm Bồ-tát là đủ; phải thật sự niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn; thậm chí đến độ nước chảy, gió thổi mà tai mình cũng chỉ nghe tiếng danh hiệu Bồ-tát mà thôi. Cho nên nói:
Hữu tình, vô tình,
Ðồng diễn Ma-ha diệu pháp.
      Nghĩa là:
Loài hữu tình hay vô tình,
Ðều nói diệu pháp đại thừa.
       Nếu mình không thể niệm tới chỗ nhất tâm bất loạn thì gió có thổi vi-vu, nước có chảy róc-rách, mình cũng chẳng tài nào cảm nhận được sự kỳ diệu của nó. Cho nên mình phải thành tâm niệm và đừng để vọng tưởng lôi kéo thì mới gặt được lợi ích của Pháp.
Khi đả thất, quý-vị phải tôn trọng qui củ của thất. Bởi vì "Vô qui củ bất năng thành phương viên." Tức là không có qui củ thì không thành phương viên. Qui củ của Tây Lạc Viên là không nói năng ồn ào để tránh làm chướng ngại kẻ khác tu hành.
Trong thời gian bảy ngày này, chúng ta còn niệm thêm Chú Ðại-bi. Công đức của Chú Ðại-bi rất khó nghĩ bàn. Nếu người không có thiện căn, thì họ khó nghe đặng ba chữ "Chú Ðại-bi." Bây gìờ đại chúng không những đã được nghe mà lại còn thọ trì đọc tụng, đủ biết quý-vị có đầy đủ thiện căn rồi. Nếu đã có thiện căn, quý-vị không nên coi thường và đừng để kiếp sống này trôi qua một cách lãng phí.
        Tôi còn nhớ khi Chùa Tây Lạc Viên đả thất lần đầu tiên, trong mười vị cư sĩ thì tám, chín vị chẳng thể niệm được Chú Ðại-bi. Nhưng nay, mười người thì có đến tám người có thể niệm được. Ðây chứng tỏ rằng sự tiến bộ của các vị cư sĩ. Tôi kể cho quý-vị nghe một câu chuyện để chứng minh về công đức của Chú Ðại-bi.
Ở Mãn-châu có một vị tài chủ, tậu rất nhiều điền sản. Vào một mùa thu, vị tài chủ này tự mình đi theo bốn, năm xe hàng chở đầy cao lương xuống phố để bán. Bởi vì từ nông thôn đến thành thị cách hơn 150 dặm, nên một giờ sáng y đã khởi hành. Chẳng may đi được nửa đường thì gặp cướp. Thấy thế y lập tức niệm Chú Ðại-bi. Lạ thay! Bọn thổ phỉ bổng như đui mù không nhìn thấy xe của y, nên y an toàn qua khỏi nguy hiểm. Ðó là một trong những sự linh cảm của Chú Ðại-bi mà chính tôi chứng kiến.
       Kinh Ðại Bi Tâm Ðà-la-ni dạy rằng: "Kẻ tụng trì chú Ðại-bi có thể tiêu trừ tai nạn: Lửa không thiêu được, nước chẳng dìm đặng." Bởi thế, tôi khuyên các vị mỗi ngày trì tụng tối thiểu ba lần. Nếu vị nào chưa biết niệm thì mau mà học. Công đức trì tụng Chú Ðại-bi không những có thể đẩy lui trộm cướp, mà còn tiêu trừ trăm bịnh, thoát khỏi sự quấy rối của chư ma. Cho nên các vị nên thành tâm tụng trì.
Hôm nay là ngày bắt đầu đả thất, bầu không khí của pháp hội rất phấn khởi và nghiêm trang. Tôi hy vọng các vị nổ lực, ra công tinh tấn.
HT Tuyên Hóa giảng trưa ngày 13 tháng 6 năm 1958
tại Tây Lạc Viên, Hồng Kông

BÍ QUYẾT CỦA SỰ CẢM ỨNG KHI TRÌ CHÚ ĐẠI BI, CHÚ LĂNG NGHIÊM...

Chào các đạo hữu! Sau các bài viết về sự linh ứng của chú đại bi và chú thủ lăng nghiêm, tôi nhận được các thư của đạo hữu hỏi làm sao để được như vậy. Thật đơn giản quý vị chỉ cần THÀNH TÂM trì tụng. Tôi nghĩ quý vị có thể gặp phải các trường hợp sau:
        1. Qúy vị đang ở trong tình trạng khó khăn, không thể xoay sở hoặc mắc phải các bệnh lạ, ung thư... không thể chữa trị được nữa, bác sĩ cũng bó tay. Lúc này, quý vị chỉ cần thành tâm trì tụng chú đại bi hoặc niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, tôi tin chắc quý vị sẽ được như ý muốn. Vì đa phần chúng ta chỉ thật sự thành tâm khi đã đến đường cùng, vô phương cứu chữa. Song, sau khi được toại ý, quý vị nên biết ơn chư Phật, chư Bồ tát... mà chớ có làm việc ác tổn hại mình và người khác như sát sanh, tà dâm, nói dối, hủy báng Phật, Pháp, Tăng, Đại thừa..., thay vào đó luôn làm các điều tốt để sám hối tội lỗi và để đền ơn các Ngài đã cứu chúng ta như hiếu thảo với cha mẹ, bố thí, phóng sanh, tạo lập chùa tháp, thờ phụng Tam bảo...
         2. Qúy vị trì tụng chú đại bi mỗi ngày, song không ở tình trạng trên, dầu biết sự nhiệm mầu của chú nhưng chưa có "khổ cùng tột". Khi trì tụng, quý vị hãy nhiếp tâm một chỗ, chớ có nghĩ gì khác ngoài niệm chú. Để nhiếp tâm, quý vị hãy nhìn tượng Phật, Bồ tát. Trước khi tụng hãy nghĩ đức Phật, Bồ tát sẽ thương xót mình vì mình không thành tâm niệm chú và mình sẽ không được toại ý nếu không nhiếp tâm lại một chỗ. Vọng tưởng, ý nghĩ có khởi lên thì cứ mặc, đừng quan tâm nó, nó sẽ tự diệt. Nếu bay theo nó, dầu ý nghĩ đó có tốt cách mấy, sự trì tụng của quý vị xem như vô ích.
         3. Lưu ý, quý vị nên trì tụng chú đại bi và lăng nghiêm mỗi ngày, công đức vô cùng. Song khi trì tụng, chớ khởi tâm ích kỉ, tự lợi như cầu trúng vé số... tâm hại người, hại vật mà nên khởi tâm từ bi thương xót chúng sanh chịu khổ, hồi hướng công đức về đạo vô thượng bồ đề, nguyện chúng sanh và mình đều thành Phật đạo, v.v... nhất định chư Phật, Bồ tát sẽ gia hộ cho quý vị. 

          Tôi sẽ đăng các bài giảng về sự linh ứng, cách trì tụng,... của các cao tăng, đại đức. Qúy vị nhớ xem để hiểu hơn về việc này. Chúc quý vị hoạch đắc mãn túc! 

NHƯ NHƯ(29)-QUANG ÂM THIÊN VÀ KHOA HỌC

       Khoa học vốn không hiện hữu. Bởi vì mình gọi nó là khoa học nên nó là khoa học.

       Hỏi: Phật-giáo nói: "Thủy tổ của loài người từ Quang Âm Thiên tới." Ðiều nầy phải chăng là mâu thuẩn với lý luận của khoa học? Ví như, khoa học có thuyết tiến hóa, nói rằng con người biến hóa từ trạng thái vi sinh vật tối sơ, trãi qua không biết bao nhiêu ức triệu kiếp, từ từ tiến hóa, cuối cùng mới biến thành khỉ rồi sau đó biến thành người. Ðiều này hợp với Phật lý chăng?
        Ðáp: Con người từ Quang Âm Thiên lại; song không phải từ bảy ức triệu năm trước đâu, có lẽ cả bảy ức ức triệu năm trước họ đã hiện hữu ở đây rồi. Các vị trời ở Quang Âm Thiên tới nhân gian, không phải kẻ hoàn thiện gì mà họ đã mất trí huệ rồi. Vì sao? Thì cũng giống như khi mình đầu thai thác sanh vậy. Lúc ban sơ khi thế giới chưa có nhân loại, chưa được khai hóa, toàn là hỗn độn (như cái trứng gà vậy). Các vị trời bay tới thế giới này, đông như ruồi, nghĩ rằng ở đây có đồ ăn ngon lành lắm. Các vị ấy từ Quang Âm Thiên xuống, có lẽ đã du hành một thời gian rất lâu mới tới được địa cầu, hệt như hỏa tiển phóng lên không gian, bay vào quỷ đạo trãi qua thời gian nhiều năm mới tới đây. Các vị trời tới địa cầu chẳng có mục đích gì đặc biệt. Các vị ấy du hành, rồi lạc mất phương hướng, nên tới địa cầu hốt hoảng cả lên. Sau khi tới địa cầu thì họ không còn thông minh như khi ở trên trời nữa. Họ chỉ còn lại một thứ tánh giác tri mà thôi, không như lúc còn ở trên cõi trời. Cũng giống như con người vốn thông minh nhưng khi chết rồi đầu thai ra thành con nít thì quên hết chuyện quá khứ. Cũng giống như người bị đụng xe, hôn mê bất tỉnh, chẳng còn tri giác việc gì cả.
Tuy nói rằng họ từ Quang Âm Thiên xuống, song họ đã dần dà mất hết đức tánh và trí huệ sẵn có, chỉ còn lại một chút xíu tánh giác tri mà thôi. Tuy là từ trời xuống, song chỉ một số ít thôi, không ai biết là bao nhiêu. Không có lịch sử để tra khảo, thời gian cũng quá lâu xa, nên không cách gì kiểm chứng đặng.
       Ðiều mình gọi là "khoa học," thì cũng không có gì là khoa học. Ðây chỉ là một danh từ, mình đặt tên nó là "khoa học." Kỳ thật, nó chỉ là một thứ lý luận, lý tánh. Lý luận ấy viên mãn hay chăng? Phải dựa vào kiến giải và năng lực hiểu biết của các bạn. Nhiều vị hiểu rộng lắm. Song có kẻ khác thì chưa học qua khoa học, không hiểu khoa học là gì. Phải chăng kẻ chưa học qua khoa học thì chẳng có khả năng lý luận? Không phải! Bất luận là học hay không, tự tánh mỗi người đều có khả năng lý luận. Chớ nói rằng học qua khoa học thì mới có khoa học (hiểu khoa học), chưa học qua khoa học thì không có khoa học (không hiểu khoa học). Cũng giống như Phật tánh, ai ai cũng sẵn có.
       Khoa học chỉ là một bộ phận nhỏ nơi Phật tánh. Nó không phải là một thứ lý luận hoàn hảo nhất. Bạn nói rằng người ta nghiên cứu khoa học như thế như thế đó, và viết ra luận án như thế như thế đó; kỳ thật đó chỉ là một sự điên đảo chấp trước của con người. Giống như "gắn một cái đầu lên trên đầu mình" (làm việc chấp trước, vô ích, ngược đời). Không có việc gì cần, mà cố tìm việc lăng xăng. Lăng xăng bận rộn tìm kiếm mãi, thì chẳng tìm ra ất giáp gì cả. Dù là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu mãi, họ chẳng thể tới đặng chân chính kết luận.
       Con người ta quá chấp trước vào khoa học, cho rằng nó là hay nhất. Kỳ thật mọi thứ đều có sẵn trong tự tánh của ta, không cần mình hướng ngoài tìm kiếm. Khi bạn tìm bên ngoài, bạn sẽ mãi mãi chẳng tìm ra. Bạn nói tìm ra nó rồi Ố đúng là thứ thiệt; song nó chỉ là đồ giả mà thôi. Bởi vì cái chân thật thì không thể tìm ra hay nói đến. Khoa học vốn không hiện hữu (không có thực thể) bởi vì mình đặt tên nó là khoa học, nên gọi là khoa học.
Hòa thượng Tuyên Hóa giảng ngày 28, tháng 11 năm 1982