Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

NGUYÊN DO PHÁP CHỈ QUÁN

NGUYÊN DO PHÁP CHỈ QUÁN
Tương truyền rằng:
Đại sư Trí Khải có người anh tên Trần Châm làm Tham tướng trong quân đội. Trần Châm được bốn mươi tuổi, một hôm đi đường gặp vị tiên tên Trương Quả Lão. Lão thấy tướng ông liền kêu lại bảo: “Ta xem tướng ông dương thọ đã hết, chỉ trong một tháng thì chết.” Trần Châm nghe qua kinh hãi, đến hỏi kế với Đại sư, Đại sư bảo: “Anh nghe theo tôi dạy tu trì, chắc chắn sẽ qua khỏi.” Trần Châm hứa vâng theo. Ngài bèn thuật pháp Tiểu Chỉ Quán đơn giản yếu lược này, bảo dụng công tu tập. Trần Châm y theo phương pháp tha thiết tu trì.
Hơn một năm, Châm gặp lại Trương Quả Lão, Lão thấy kinh ngạc, hỏi: “Ông không chết, có phải tại uống thuốc trường sanh chăng?” Châm đáp: “Không phải. Do em tôi là Trí Khải dạy tôi tu tập Chỉ, Quán tọa thiền nên được như vầy.” Lão khen: “Phật pháp không thể nghĩ bàn, hay phản tử hoàn sanh, thật là hi hữu!”
Mấy năm sau, Trần Châm mộng thấy đến Thiên cung. Trong ấy có đề: “Nhà của Trần Châm, mười lăm năm sau sẽ sanh lên đây.” Đúng mười lăm năm sau, Trần Châm từ biệt quyến thuộc, ngồi kiết-già yên ổn mà tịch.
Đây là nguyên do Đại sư Trí Khải thuật bộ Chỉ Quán này.

TRÁNH DỤC

PHẦN CHÁNH TÔNG
II.- TRÁCH DỤC
Nói trách dục tức là trách ngũ dục. Phàm muốn tọa thiền tu tập Chỉ, Quán quyết phải quở trách ngũ dục. Ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc ở thế gian. Nó hay làm mê hoặc tất cả phàm phu khiến phải say đắm. Nếu người biết tội lỗi của nó liền xa lìa, ấy gọi là trách dục.
1. Trách sắc dục: Những hình dáng kiều diễm của nam nữ, như mắt trong, mày dài, môi son, răng trắng... và bao nhiêu màu sắc mỹ lệ xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lam, lục của các vật báu ở thế gian. Nó hay khiến kẻ phàm phu trông thấy sanh lòng yếu mến, tạo các ác nghiệp. Như vua Tần-bà-ta-la vì sắc dục đem thân vào nước địch, cam ở trong phòng nàng A-phạm-ba-la. Lại vua Ưu-điền cũng vì sắc dục chặt tay chân năm trăm vị tiên. Sắc dục còn gây biết bao tội lỗi như vậy.
2. Trách thanh dục: Là tiếng đàn tranh, đàn cầm, ống tiêu, ống sáo, tiếng ty, tiếng trúc, kim, thạch tấu thành âm nhạc và giọng ca ngâm, tán tụng của nam nữ. Nó hay cám dỗ kẻ phàm phu vừa nghe liền sanh tâm đắm nhiễm, tạo các ác nghiệp. Như năm trăm vị tiên ở núi Tuyết nghe giọng ca của nàng Chân-đà-la liền mất thiền định, tâm say mê cuồng loạn. Mê âm thanh tạo nên tội lỗi, còn biết bao việc như thế.
3. Trách hương dục: Mùi hương của nam nữ, của các thức ăn uống và các thứ hương xông ướp, kẻ ngu không  biết xét tướng trạng của nó, vừa ngửi liền sanh mê đắm, mở cửa cho kiết sử. Như vị Tỳ-kheo ở bên hồ sen, ngửi mùi hương của hoa sanh tâm ưa thích, bị vị thần giữ ao quở trách: “Tại sao dám trộm mùi hương của ta.” Vì thích mùi hương khiến các kiết sử đang nằm liền đứng dậy. Còn biết bao nhân duyên do hương dục gây tai hại như thế.
4. Trách vị dục: Là những mùi vị đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt... những thứ cao lương mỹ vị hay khiến phàm phu sanh tâm nhiễm trước, tạo các nghiệp ác. Như ông Sa-di vì thích vị tô lạc nên sau khi chết làm con dòi ở trong tô lạc. Vị dục còn lắm việc hại tương tợ như thế.
5. Trách xúc dục: Da thịt mềm mại mịn màng của nam nữ; khi lạnh chạm ấm, khi nóng xúc mát và các cái xúc chạm hợp với nhu cầu, kẻ ngu không trí vì đó chìm đắm, khiến ngăn ngại đạo nghiệp. Như vị tiên một sừng vì xúc dục mà mất thần thông, bị dâm nữ cỡi cổ. Xúc dục có lắm việc tai hại như thế.
Phương pháp trách dục như trên đều rút trong luận Ma-ha-diễn.
Lại than rằng: “Than ôi! Chúng sanh thường bị ngũ dục não loạn, mà mải tìm cầu không thôi. Ngũ dục này, nếu cầu được càng hăng, như lửa thêm củi, ngọn lửa càng mạnh. Ngũ dục không vui, như chó gặm xương khô. Ngũ dục gây tranh đấu, như bầy quạ giành thịt thúi. Ngũ dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ dục hại người, như đạp rắn độc. Ngũ dục không thật, như mộng được của báu. Ngũ dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá nháng lửa. Trí giả suy xét coi nó như giặc thù; thế nhân lầm mê tham đắm ngũ dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô lượng khổ não.”
Đến các loại súc sanh vẫn có ngũ dục này, nên tất cả chúng sanh thường bị ngũ dục sai sử, đều làm tôi mọi cho ngũ dục; lao mình trong tệ dục, chìm đắm trong tam đồ. Ta nay tu thiền định lại bị chúng ngăn che, chúng là giặc dữ phải chóng gấp xa lìa. Như bài kệ trong kinh Thiền chép:
Chết sống không đoạn dứt,
Vì ưa dục, thích vị,
Nuôi thù vào gò nổng,
Luống chịu các đắng cay.
Thân thúi như tử thi,
Chín lỗ chảy bất tịnh,
Như trùng phân ưa phân,
Kẻ ngu thân không khác.
Người trí nên xét thân,
Không tham nhiễm thế lạc,
Không mắc, không ham muốn,
Ấy gọi chân Niết-bàn.
Như chư Phật đã nói,
Nhất tâm, nhất ý hành,
Sổ tức tu Thiền định,
Ấy gọi hành đầu-đà.
Trích Tọa Thiền Chỉ Quán

HIỂU BIẾT MA SỰ


PHẦN CHÁNH TÔNG
VIII.- HIỂU BIẾT MA SỰ
Tiếng Phạn gọi là Ma-la, đời Tần dịch là Sát. Nó cướp của công đức và giết mạng trí tuệ của người tu hành, nên gọi là ác ma. Sự là lấy công đức trí tuệ độ thoát chúng sanh vào Niết-bàn là Phật sự; thường phá hoại căn lành của chúng sanh khiến lưu chuyển trong vòng sanh tử là ma sự. Nếu người khéo an tâm trong chánh đạo mới biết đạo càng cao, ma càng thạnh. Phải biết ma sự có bốn loại:
1.  Ma phiền não
2.  Ma ấm, nhập, giới
3.  Ma chết
4.  Ma quỉ thần
Ba loại ma trước đều là việc thường ở thế gian và tùy tâm người sanh ra, nên phải tự tâm chân chánh đuổi trừ nó, ở đây không phân biệt. Tướng ma, quỉ thần là điều cần phải biết, đây lược nêu ra. Quỉ thần có ba loại:
a) Ma Tinh mị
Là loài thú theo mười hai giờ, nó biến hóa làm các thứ hình sắc. Hoặc nó hóa người thiếu nữ, người già nua, nhẫn đến những hình tướng đáng sợ không phải ít để làm não loạn người tu hành. Các loài tinh mị này não hại người tu, mỗi loài đến theo giờ của nó, phải biết rành rõ. Nếu giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) đến, ắt là loài cọp v.v... Nếu giờ Mẹo (5 giờ - 7 giờ) đến, ắt là loài thỏ, nai v.v... Nếu giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) đến, ắt loài rồng, trạnh v.v... Nếu giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ) đến, ắt loài rắn, trăn v.v... Nếu giờ Ngọ (11 giờ - 13  giờ) đến, ắt loài ngựa, lừa, lạc đà v.v... Nếu giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) đến, ắt loài dê v.v... Nếu giờ Thân (15 giờ - 17 giờ) đến, ắt loài khỉ, vượn v.v... Nếu giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) đến, ắt loài gà, chim v.v... Nếu giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ) đến, ắt loài chó, chó sói v.v... Nếu giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ) đến, ắt loài lợn v.v... Nếu giờ Tý (23 giờ - 1 giờ) đến, ắt loài chuột v.v... Nếu giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ) đến, ắt loài trâu v.v... Hành giả nếu thấy chúng thường dùng những giờ này đến, tức biết những loài tinh thú ấy, kêu tên nó mà quở trách liền phải tiêu diệt.
b) Ma đôi dịch
Nó cũng làm những việc xúc chạm não loạn người tu hành. Hoặc hóa như con sâu, con mọt bò lên đầu, mặt người vùi, chích, chớp nhoáng; hoặc bươi, vạch dưới hai nách của người; hoặc chợt ôm người giữ người; hoặc kêu vang lên làm ồn náo và hóa hình các loài thú rất nhiều tướng lạ. Khi nó đến não loạn, người tu liền biết nên nhất tâm nhắm mắt lại, thầm mắng nó thế này: “Ta nay đã biết ngươi, ngươi là loài quỉ Thâu-lạp-kiết-chi tà kiến ưa phá giới ngửi mùi ăn lửa trong cõi Diêm-phù-đề, ta nay giữ giới quyết không sợ ngươi.” Nếu người xuất gia nên tụng giới bản, nếu người tại gia nên tụng Tam qui, Ngũ giới v.v... thì bọn quỉ này khúm núm rút lui. Nếu có hóa các thứ tướng mạo làm chướng nạn người tu như thế và các phương pháp đoạn trừ, ở trong kinh thiền có nói rộng.
c) Ma não
Bọn ma này hay hóa làm ba thứ cảnh tướng ngũ trần đến phá thiện tâm người.
• Hóa cảnh nghịch ý: Như hóa cọp, sói, sư tử, những hình tượng đáng sợ, là ngũ trần ghê sợ khiến người phải kinh khủng.
 Hóa cảnh thuận ý: Như hóa hình tượng cha mẹ, anh em, chư Phật và nam nữ đẹp đẽ đáng yêu, là ngũ trần yêu thích khiến người sanh tâm đắm mến.
 Hóa cảnh không thuận không nghịch:  cảnh ngũ trần bình thường làm loạn động tâm người tu hành khiến mất thiền định.
Thế nên, ma gọi là “Sát” cũng gọi là “Mũi tên hoa”, cũng gọi là “Năm mũi tên”; vì nó bắn vào năm giác quan của người. Giữa vật chất và tinh thần nó tạo ra bao nhiêu cảnh giới làm mê lầm não loạn người tu hành, nên gọi là ma. Hoặc nó tạo ra những thứ âm thanh hay, dở; những thứ mùi thơm, hôi; tạo ra những thứ vị ngọt, đắng; những cảnh giới khổ, vui đến làm xúc não thân người đều là việc của ma, tướng nó rất nhiều, ở đây không thể kể hết. Tóm phần trọng yếu, nếu tạo những thứ ngũ trần làm não loạn người, khiến mất pháp lành, khởi các phiền não đều là ma quân. Do nó hay phá hoại tính bình đẳng của Phật pháp, khởi các pháp chướng đạo: tham dục, lo buồn, giận hờn, ngủ mê v.v... Như bài kệ trong kinh chép:
Dục ma quân thứ nhất,
Ưu sầu đội thứ hai,
Đói khát quân thứ ba,
Mến yêu là thứ tư,
Ngủ mê quân thứ năm,
Kinh sợ đội thứ sáu,
Nghi hối quân thứ bảy,
Giận hờn là thứ tám,
Mê danh lợi thứ chín,
Ngã mạn là thứ mười.
Như thế, những thứ quân,
Dìm đắm người xuất gia.
Ta lấy sức thiền trí,
Phá dẹp các quân ma,
Được thành Phật đạo rồi,
Độ thoát tất cả người.
Hành giả đã biết việc ma, cần phải đuổi nó. Phương pháp đuổi có hai:
1. Tu Chỉ đuổi: Phàm thấy tất cả cảnh ma bên ngoài đều biết là hư dối, không lo, không sợ, cũng không thủ, không xả hay vọng chấp phân biệt, dứt tâm lặng yên thì ma tự tiêu diệt.
2. Tu Quán đuổi: Nếu thấy các cảnh ma như trước đã nói, dùng Chỉ đuổi không đi, phải phản quán tâm năng kiến không thấy chỗ nơi thì bọn ma kia chỗ nào mà não loạn? Khi quán như thế ma liền diệt hết. Nếu nó trì hoãn không đi, cần phải chánh tâm, chớ sanh tưởng kinh sợ, không tiếc thân mạng, chánh niệm không động, biết trên bản tánh chân như ma giới tức là Phật giới; nếu ma giới là Phật giới thì chỉ có một không hai; rõ biết như vậy thì ma giới không xả, Phật giới không thủ, Phật pháp tự sẽ hiện tiền, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt.
Lại nữa, nếu thấy ma cảnh không tiêu chẳng cần phải lo, nếu thấy tiêu diệt cũng chớ sanh mừng. Vì cớ sao? Vì chưa từng thấy có người ngồi thiền thấy ma hóa làm cọp, sói đến ăn thịt, cũng chưa từng thấy ma hóa làm nam nữ đến kết làm vợ chồng, chính nó là huyễn hóa. Người ngu không rõ, tâm sanh kinh sợ và khởi lòng tham đắm, nhân đó mà tâm loạn, mất thiền định và sanh cuồng, tự chuốc lấy họa hoạn đều tại mình không có trí tuệ mà thọ hại, không phải tại ma gây nên. Nếu các ma cảnh làm não loạn người tu, hoặc trải qua nhiều tháng đến cả năm mà không đi, chỉ phải đoan tâm chánh niệm cho kiên cố, không tiếc thân mạng, chớ ôm lòng lo sợ, phải tụng các kinh Đại thừa, Phương đẳng và thần chú trị ma, thầm tụng niệm và hằng nhớ Tam Bảo. Nếu khi xuất định cũng phải tụng chú để tự đề phòng, sám hối, hổ thẹn và tụng giới luật, tà không can phạm được chánh, lâu lâu nó tự diệt. Ma sự rất nhiều nói không thể hết, phải khéo mà biết nó.
Thế nên, người sơ tâm tu hành cần phải gần gũi thiện tri thức. Nếu có những việc nạn như vậy, ấy là ma nhập tâm người hay khiến người tâm thần cuồng loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhân đó thành bệnh đến chết. Hoặc khi ma cho được tà thiền định, trí tuệ, thần thông, đà-la-ni, thuyết pháp giáo hóa, người đều kính phục, về sau phá hoại việc lành xuất thế của người và phá hoại chánh pháp. Những việc ma như thế, có nhiều loại sai biệt không thể nói hết. Nay lược chỉ bày những điều cần yếu để cho người tu trong lúc tọa thiền không lầm nhận các cảnh giới ma.
Nói tóm lại, nếu muốn dẹp tà về chánh phải quán thật tướng của các pháp, khéo tu Chỉ, Quán thì không có cái tà nào mà không dẹp được. Cho nên trong kinh luận chép: “Trừ thật tướng của các pháp, kỳ dư tất cả là ma sự.” Như bài kệ chép:
Nếu phân biệt nhớ tưởng,
Tức là lưới của ma,
Không động, không phân biệt,
Ấy tức là pháp ấn.
Trích  Tọa Thiền Chỉ Quán

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THÀNH LẬP PHÁP HỘI TỤNG CHÚ ĐẠI BI, CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM Ở VIỆT NAM

Kính gửi chư tôn, đức tăng, ni!
Hôm nay con viết bài này kính mong chư tôn đức tăng ni xem xét về việc thành lập pháp hội tụng chú Đại Bi,  chú Thủ Lăng Nghiêm về những lí do sau:
1. Từ trước đến nay đã có nhiều pháp hội niệm Phật nhưng còn rất ít pháp hội tụng chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm.
2. Vì sự ổn định và phát triển của đất nước. Sau một thời gian tụng chú con nhận thấy rằng: chú Đại Bi và Lăng Nghiêm có công năng vô cùng vĩ đại. Chú có thể gia trì cho đất nước không mắc nhiều tai ương, hiểm họa. Chú Đại Bi có thể tiêu trừ nghiệp chướng cùng các chướng khí không hình không tướng trên đất nước. Chú Lăng Nghiêm giúp đất nước tránh khỏi tai nạn giao thông, thiên tai, hỏa hoạn,... Điều này chắc chắn những bậc cao tăng, đại đức có thể nhận biết được.
 3. Vì để bảo hộ cho người xuất gia. Con thấy có những Phật tử phát tâm xuất gia với tâm niệm chí thành, chí thiện. Song, sau những năm tháng tu tập, do sự nhận biết sai lầm và cái nhìn chưa đúng đắn, từ tâm thiện, tâm lành đã chuyển thành tâm ganh ghét, đố kị. Trì tụng đại bi chú, họ có thể chuyển ác thành lành, và phục hồi tâm lương thiện. Điều này sẽ giúp họ tránh xa quả báo Địa ngục, súc sanh và sự quấy rối của chư Ma.
Trì tụng Lăng Nghiêm chú giúp người xuất gia giữ tâm Bồ Đề kiên cố trước các thử thách, nghịch cảnh và nhất là tránh khỏi sự quấy rối của Thiên Ma ở trong tâm của họ.
4. Nếu có pháp hội tụng trì Đại Bi, Lăng Nghiêm không những tự mình được công đức mà còn giúp người khác gây nhân Bồ Đề. Qúy vị cùng họ đồng đi đến con đường thành Phật.
5. Hiện nay, mọi người đa phần không tin nhân quả, cứ tạo ác nghiệp rồi tự lãnh lấy các căn bệnh ung thư, viêm ngang, bại liệt...cùng các căn bệnh lạ khó chữa khác. Tụng trì đại bi chú có thể chữa lành được các bệnh này. 
Mong các vị suy nghĩ về vấn đề này!
A Di Đà Phật.

RẤT HAY-THỦY KÍNH HỒI THIÊN LỤC 2


Giải thích lý do viết “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” bằng văn Bạch Thoại
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng vào ngày 1 tháng 10 năm 1988 tại Kim Sơn Thánh Tự.
 
 “Thủy và kính” (nước và gương) trong bộ “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” nầy đều là những vật có bóng dáng nhưng không có hình tướng cụ thể; trăng trong nước và hoa trong gương đều không có tự thể. Hai ví dụ trên là động cơ để tôi viết nên bộ “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” nầy, với mong ước cứu vãn phần nào tai kiếp trên thế giới hiện nay. Tai kiếp là số trời đã định; quý vị làm nhiều điều ác sẽ tự chuốc lấy quả báo, cho nên nói tự mình làm tự mình chịu. Tự làm tự chịu vốn là đạo lý rất công bằng, không có sức mạnh nào có thể cứu vãn, xoay chuyển được thiên số này. Cứu vãn là hy vọng tội đã tạo vốn phải chịu quả báo có thể được giảm nhẹ, trở lại làm một người không gây tạo tội ác nữa. Thọ quả báo vốn là nghiệp đã tạo từ trước, hôm nay phải nhận lấy hậu quả; sự việc đã như vậy, khó có thể vãn hồi. Bây giờ chúng ta muốn cứu vãn tội nghiệp của mình, việc nầy cũng giống như trăng trong nước, hoa trong gương, thật là mờ mịt, thật không thể nắm bắt. Tuy nói không thể nắm bắt, và cũng rất là mờ mịt, nhưng tôi vẫn muốn làm, biết là nó không thể nhưng vẫn cứ muốn làm, biết rõ là không dễ vãn hồi, nhưng vẫn muốn xoay chuyển ý trời.
Chữ “Hồi thiên” nầy không phải là đi lên trời, mà là muốn vãn hồi lại ý trời, muốn cứu vãn tai kiếp lớn; muốn cứu con người ra khỏi vô số những tai kiếp vốn phải chịu trên thế gian như nạn đao binh, nạn nước, lửa, bệnh dịch tràn lan v.v.. trong tam tai bát nạn. Người phải chết trong nạn đao binh cũng chính là người phải chết trong nạn chiến tranh, chúng ta đến chiến trường cứu sống những người nầy lại; nước lớn nhận chìm người, lửa dữ thiêu chết người, chúng ta cứu người từ trong nạn nước lửa nầy; trước khi con người mắc phải hay chưa mắc phải vô số những bệnh dịch tràn lan như: bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm, bệnh Aids (sida) và bệnh ung thư không trị được… chúng ta dạy họ cách phòng ngừa, giúp họ thoát khỏi tay tử thần, cứu người sắp chết sống lại, đây gọi là “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” và đây cũng là động cơ giúp tôi viết nên bộ sách này. Nói chung tuy trăng trong nước, hoa trong gương không có thật thể, nhưng trong cái hư vọng mờ mịt đó, tôi phải cố gắng hết sức mình để cứu vãn tai kiếp lớn nầy, khiến cho tai nạn không phát sanh trên thế giới của chúng ta.
Cho nên mới nói “Tĩnh quán tam thiên đại thiên thế giới” (lắng lòng nhìn kỹ khắp tam thiên đại thiên thế giới), “tĩnh” chính là bình tâm tĩnh chí, “quán” chính là xem xét, chúng ta bình tâm tĩnh chí để xem xét cái gì? Xem xét trong ba ngàn đại thiên thế giới, ác nghiệp dẫy đầy. Một núi Tu di, một mặt trời mặt trăng, một tứ đại bộ châu hợp lại thì gọi là một thế giới. Thế thì một ngàn ngọn núi tu di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ đại bộ châu hợp lại thì gọi là một tiểu thiên thế giới; hợp một ngàn tiểu thiên thế giới lại, gọi là một trung thiên thế giới; hợp một ngàn trung thiên thế giới lại, gọi là một đại thiên thế giới. Hiện tại nói ba ngàn đại thiên thế giới, chính là tập hợp của ba cái “thiên”, tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới và đại thiên thế giới, nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Rốt cuộc ở đây có bao nhiêu thế giới? E rằng dùng máy tính cũng không thể tính đếm hết được số thế giới nầy.
Thế thì trong nhiều thế giới như vậy, thiện nghiệp trong mỗi thế giới rất ít, đa số đều là ác nghiệp, ác nghiệp lan tràn khắp nơi, đầy cả hư không pháp giới. Làm sao có thể chứng minh được nó đầy cả hư không pháp giới? Qúy vị nhìn xem, người của đất nước nầy muốn giết người của đất nước kia, người của đất nước kia lại muốn giết người của đất nước nầy. Vì sao như thế? Vì họ nhất định muốn tiêu diệt đối phương để mở rộng lãnh thổ, quyền lợi và địa vị của mình cho nên mới tạo thành chiến tranh thế giới. Ồ! Anh phát minh ra bom nguyên tử, tôi cũng phát minh ra bom khinh khí! Anh có phát minh ra cái gì, phát hiện ra một; tôi cũng phát minh ra cái khác, phát hiện ra hai, cứ thế không bao giờ chấm dứt. Những thứ được tạo ra đều là những vũ khí dùng để giết người, cho nên mới tạo thành chiến tranh thế giới.
Chiến tranh thế giới bắt nguồn từ đâu? Chính là bắt nguồn từ việc nhà với nhà giết hại lẫn nhau, có nhân sát, duyên sát, pháp sát và nghiệp sát. Giữa các nhà với nhau, anh muốn hủy diệt gia đình của tôi, tôi cũng muốn hủy diệt gia đình anh, đôi bên không chấp nhận  lẫn nhau, cho nên mới tạo thành sự đối nghịch giữa các thôn làng, thậm chí đến gà chó cũng không được an toàn. Thế vì sao ngay trong gia đình cũng có chiến tranh? Vì những người trong cùng một nhà muốn giết hại lẫn nhau. Giáp muốn giết Ất (1), muốn tích chứa tất cả lương thực trên thế gian để riêng mình dùng; còn Ất thì sao? Ất cũng muốn giết Giáp, gom tất cả châu báu trên thế gian  vào trong tay mình; cho nên mới tạo thành chiến tranh giữa con người với nhau, vì họ không thể dung hợp lẫn nhau. Chiến tranh giữa người và người là chuyện nhỏ, thậm chí đến bản thân mình cũng có sự xung đột, tự mình đối với chính mình cũng có loại nhân sát, duyên sát, pháp sát và nghiệp sát. Nhân sát là trong tâm khởi lên niệm giết hại; nhân sát là gặp được việc phù hợp với tâm niệm sát, dẫn đến ra tay hành động; pháp sát là có được dịp thuận lợi rồi, nhưng người ra tay cần có một phương pháp, thế là tìm đủ mọi cách để giếp người; giết người rồi, sẽ tạo thành nghiệp sát nhân. Đây chính là ngay nơi bản thân mình đã có sự tương sát! Ngay cả trong tâm cũng khởi lên chiến tranh, đây chính là lúc thế giới không có sự an ninh.
Chiến tranh trong tâm, dẫn đến chiến tranh giữa các gia đình, giữa các quốc gia. Vì có nghiệp sát như thế, nên thân làm nguyên thủ lãnh đạo quốc gia, ví dụ như làm quốc vương, tổng thống, hoàng đế sẽ đi gây chiến với nước khác. Vì giành đất mà gây chiến, sẽ giết người đầy đồng; vì tranh thành mà gây chiến, sẽ giết người ngập thành. Muốn giết thì phải có cách giết, thế là phóng ra một số khí độc, bom nguyên tử cũng có độc, bom khinh khí cũng có độc, cho đến hiện tại chế tạo ra hỏa tiễn, đạn đạo tầm xa cũng đều có một luồng khí độc, luồng khí độc nầy đầy cả hư không, khiến cho giữa hư không và hư không có sự hủy diệt lẫn nhau. Hư không kia của anh muốn chiếm hữu hư không này của tôi, hư không này của tôi cũng muốn nuốt chửng hư không kia của anh. Giữa nước với nhau cũng có sự tương sát, nước tương sát như thế nào? Anh nhả khí độc vào trong biển, muốn giết hại người bên phía chúng tôi, người khác cũng thả độc vào nước, đôi bên đều thải ra chất độc hóa học, khiến cơ thể con người hít phải độc tố, mắc phải bệnh kỳ lạ không thể trị được. những chất độc mang tính cảm nhiễm ngấm ngầm nầy đều rất đáng sợ, làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm trái đất, nước cũng bị ô nhiễm, trên đất liền, dưới biển cả, trong hư không không nơi nào an toàn cả. Tai kiếp nầy vô cùng thảm khốc, cho nên nói “thảm thay, đau thay!” Thật là đáng sợ thay!
Nếu muốn vãn hồi tai kiếp nầy, muốn xoay chuyển lại ý trời, cứu vãn tất cả tai nạn, bệnh tật, vô hình trung khiến những điều trên không sanh khởi thì con người chúng ta nên giữ giới không giết hại và thực hành hạnh phóng sanh. Vì tất cả chiến tranh đều từ giết hại sanh mạng mà ra. Tại sao nẩy sanh ra hành động giết hại sanh mạng ? Vì khởi lên niệm giết hại, nếu không có niệm giết hại thì duyên giết hại, phương pháp giết hại và nghiệp giết hại cũng tự nhiên không có, dẫn đến không có tất cả những tai kiếp.
Vì vậy mà con người phải giữ gìn năm giới:
1.                  Không giết hại,  ngay cả ý niệm giết hại cũng không có.
2.                  Không trộm cắp, ý niệm trộm cắp cũng không khởi.
3.                  Không tà dâm, không khởi lên ý niệm tà dâm. “Vạn điều ác dâm đứng đầu, trăm điều lành hiếu trước tiên” lại nói “vạn điều ác dâm đứng đầu, con đường chết không thể đi”. Qúy vị mượn người ta bao nhiêu, sẽ phải trả lại bấy nhiêu, quả báo một mảy may chẳng sót.
4.                  Không nói dối, quý vị không thể luôn nói dối để dối gạt người, ngay cả ý niệm nói dối cũng không nên có.
5.                  Không uống rượu, cũng không nên khởi ý niệm uống rượu; uống rượu nhiều sẽ cuồng loạn tâm tánh, cuồng loạn tâm tánh sẽ gây ra rất nhiều việc trái với bổn phận, vượt ra ngoài đạo lý, không hợp phép tắc; cho nên phải kiêng bỏ uống rượu.
Quý vị có thể nghiêm trì năm giới, lại có thể thực hành mười điều thiện, đây chính là việc làm có thể tiêu diệt tai kiếp ác nạn trên thế gian; cho nên đang trong thời gian phòng ngừa tai họa, chúng ta nên hành trì năm giới; nếu ai cũng giữ gìn năm giới thì thế giới sẽ thái bình, con người không còn gặp phải tai nạn nữa.
Kiếp nạn lớn vốn là ý trời, muốn cứu vãn tai kiếp lớn chính là hồi thiên, quý vị có cách có thể xoay chuyển lại ý trời, mọi người đều sẽ được an lạc; mọi người an lạc, thế giới sẽ không còn chiến tranh. Kiếp nạn lớn là do sát sanh quá nhiều mà có; quý vị thấy con người chúng ta mỗi ngày giết bao nhiêu bò, dê, heo? Cho nên ngay cả tâm giết hại đều phải không có, phải thọ trì năm giới, chuyên cần tu tập ba môn học Giới, Định, Huệ. Cái gì gọi là Giới? Giới chính là không làm các điều ác, chuyên hành các điều thiện; Định là không làm việc không chánh đáng; Huệ chính là có trí huệ. Vì sao làm ác? Vì không giữ giới luật; nếu có thể giữ giới luật “không làm các điều ác, chuyên hành các việc lành”, tự nhiên sẽ thành tựu được thiện nghiệp. Cho nên muốn tiêu diệt tất cả các tai kiếp, tất phải trừ bỏ niệm giết hại, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ và uống rượu, thì mới có thể nhận thức được mặt mũi xưa nay của quý vị.
Mặt mũi xưa nay của quý vị là cái gì? Chính là “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể làm Phật”. Quý vị có thể nhận thức được Phật tánh của mình, tương lai nhất định sẽ thành Phật; trí tuệ thông minh vốn có của mình sẽ tự hiển bày, thấy được bổn địa phong quang. Bổn địa phong quang chính là nơi quý vị đã từng đến, cũng chính là đến được với Phật tánh của quý vị, Phật tánh vô cùng kỳ diệu, ý vị vô cùng. Chúng ta muốn thử làm thì đầu tiên phải như thế nào? Phải thanh tịnh ý chí, tâm tánh, hồi tâm hướng thiện, cải ác làm lành; lại còn phải tinh tiến dũng mãnh, phát tâm bồ đề, lập chí tu hành, thành tựu đạo quả, đây chính là một cách thức tốt.
Chúng ta còn phải rộng độ chúng sanh, độ mình độ người, giác mình giác người, lợi mình lợi người, nếu có ai chưa lìa khổ được vui thì là chúng ta chưa làm hết trách nhiệm của mình; mọi người cùng nhau liễu thoát sanh tử, lìa khổ được vui, đồng đến bờ giác, cùng chư thượng thiện nhân vui hợp một chỗ, Bồ tát bất thoái luôn làm bạn của chúng ta. Sở dĩ tôi viết ra “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” chính là vì muốn làm được việc nầy; cho nên ai có thể nghiêm trì năm giới, người đó chính là chiến sĩ của “Thủy Kính Hồi Thiên Lục”.
Nhưng mà việc nầy nói ra thì dễ, làm lại rất khó. Vì sao vậy? Vì tánh thức của chúng sanh ở thế giới Ta bà vô định, khó điều phục, muốn họ làm lành, cho dù đã nhiều lần ân cần dạy dỗ, tận tâm chỉ bảo, vẫn rất khó làm cho họ tuân thủ làm theo. Nhưng vừa gặp phải ác duyên, ví dụ như đánh bạc, hút thuốc phiện, hoặc khiêu vũ, xem phim thì họ luôn khởi tâm muốn làm theo; những việc nầy không cần phải dạy, họ cũng tự biết rõ, cũng có thể nói là không thầy dạy nhưng tự biết. Trong biển nghiệp mênh mông, thực ra biết quay đầu trở lại rất ít! Cho nên việc muốn vãn hồi lại ý trời cũng giống như trăng trong nước, có bóng nhưng không hình; giống như hoa trong gương, cũng có bóng mà không có hình, không có cơ sở.
Tuy nhiên, cái hy vọng chúng ta muốn vãn hồi lại ý trời, không phải là trăng trong nước, hoa trong gương; nhưng muốn vãn hồi lại ý trời cũng giống như trăng trong nước, hoa trong gương, không có căn cứ, không có thành tựu, căn bản là có bóng nhưng không có hình, chỉ có thể thấy mà không thể với tới, chỉ có thể xem mà không thể lấy được; nhưng cho dù là việc không thể làm được, tôi cũng muốn làm, đây chính là cái được gọi là “hy vọng trong cái không thể hy vọng, thành tựu trong cái không thể thành tựu”, cho nên tôi mới đặt tên bộ sách nầy là “Thủy Kính Hồi Thiên”, có nghĩa là việc tôi muốn làm thật không dễ thực hiện.
 
Chú thích: 
(1) Người Trung Hoa dùng tên Giáp và Ất để ví dụ chỉ hai người nào đó như người A và B.
 

RẤT HAY-THỦY KÍNH HỒI THIÊN LỤC1


Giới thiệu:

Tai ương ách nạn là do sát nghiệp sanh ra, sát nghiệp là do tâm sanh ra; nếu tâm không sanh lòng giết hại, lòng trộm cướp, lòng tà dâm, lòng nói dối, lòng uống rượu mà lại nghiêm trì năm giới, siêng tu tam vô lậu học (giới, định, huệ), thì tất cả ác nghiệp liền được tiêu trừ. Khi đó thì “bổn lai diện mục” không khó nhận thức, “bổn hữu trí huệ” tất tự nhiên hiện tiền. Cảnh vật ở nơi này kỳ diệu biết bao không nơi nào có được. “Bổn địa phong quang” có lý thú kỳ diệu riêng mà ý vị thật vô cùng tận! Chúng ta nếu muốn được thưởng thức cái ý vị đó thì phải phát khởi lòng hướng thiện, gạn lọc tâm tính, phát tâm đại tinh tấn dõng mãnh, lập chí tiến tu nguyện thành đạo quả, để cứu độ nhân sinh cùng tới được bờ bên kia, cùng các bậc thiện nhân cao thượng vui vầy một chỗ, mãi mãi được bầu bạn cùng các bậc Bồ Tát bất thối. Cho nên, tôi viết quyển “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” là vì mục đích này! 
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Phần Tựa
ThuKinhHoiThienLuc.jpg (64747 bytes)
Thủ bút Phần tựa Thủy Kính Hồi Thiên của Hòa Thượng Tuyên Hóa
Chúng ta hãy lắng lòng nhìn kỹ mà xem, khắp tam thiên đại thiên thế giới ngày nay, ác nghiệp dẫy đầy, các quốc gia tàn sát nhau dẫn đến chiến tranh thế giới; nhà nhà giết hlẫn nhau dẫn đến chiến tranh làng xóm, người người giết hại lẫn nhau tạo nên chiến tranh giữa mình và người; tự mình giết hại bản thân mình tạo thành chiến tranh trong tâm tánh; cho đến hư không cùng hư không giết hại nhau, nước cùng nước giết hại nhau, tạo thành các loại chiến tranh hữu hình và vô hình… Ôi! Thật là khổ đau và buồn thương vô hạn!

Vô lượng tai ương nạn ách đều do nghiệp sát tạo thành. Chúng ta nếu không kịp thời tỉnh thức ngăn chặn nguyên nhân sát sanh, duyên do sát sanh, phương pháp sát sanh, cùng nghiệp sát sanh, thì khó mà chuyển đổi được tai ách để được an lạc.
Tai ương ách nạn là do sát nghiệp sanh ra, sát nghiệp là do tâm sanh ra; nếu tâm không sanh lòng giết hại, lòng trộm cướp, lòng tà dâm, lòng nói dối, lòng uống rượu mà lại nghiêm trì năm giới, siêng tu tam vô lậu học (giới, định, huệ), thì tất cả ác nghiệp liền được tiêu trừ. Khi đó thì “bổn lai diện mục” không khó nhận thức, “bổn hữu trí huệ” tất tự nhiên hiện tiền. Cảnh vật ở nơi này kỳ diệu biết bao không nơi nào có được. “Bổn địa phong quang” có lý thú kỳ diệu riêng mà ý vị thật vô cùng tận! Chúng ta nếu muốn được thưởng thức cái ý vị đó thì phải phát khởi lòng hướng thiện, gạn lọc tâm tính, phát tâm đại tinh tấn dõng mãnh, lập chí tiến tu nguyện thành đạo quả, để cứu độ nhân sinh cùng tới được bờ bên kia, cùng các bậc thiện nhân cao thượng vui vầy một chỗ, mãi mãi được bầu bạn cùng các bậc Bồ Tát bất thối. Cho nên, tôi viết quyển “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” là vì mục đích này! 
Tuy nhiên, nói thì dễ nhưng làm lại rất khó, nguyên nhân là do đâu ? Là bởi,  chúng sinh trên bước đường tu tập điều thiện, dù được ân cần chỉ dạy năm lần bảy lượt, họ  vẫn  không thực hành theo; nếu  gặp ác duyên, thì niệm niệm tăng trưởng, không ai dạy cho cũng tự biết làm!  Kẻ lầm đường lạc lối mà biết quay lại thật ít lắm thay! Thế thì, có khác nào  “ánh trăng đáy nước, bóng hoa trong gương,” tuy có ảnh mà không hình. Đây chính gọi là sự hy vọng vào việc không thể hy vọng, sự thành tựu việc không thể thành tựu, cho nên nói rằng: “Thủy Kính Hồi Thiên” là thế đấy !
Ngày 17 tháng 11, năm Nhâm Thìn (1952), ngày Di Đà Đản Sanh

An Từ cẩn chí
 
Chú thích:
An Từ là pháp danh của Hòa thượng Tuyên Hóa.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN MONG MUỐN XUẤT GIA CỦA TÔI


Bài nói chuyện của phật tử Thân Mộ (Chin Mu 親慕) vào ngày 3 tháng 2 năm 2013

 Kính thưa chư Phật và chư Bồ Tát, Hòa Thượng, các vị Pháp sư và tất cả Thiện Hữu Tri Thức, A Di Đà Phật!

Pháp danh của con là Thân Mộ, con là một người tập sự mới và là người nói chuyện tối nay. Con sẽ nói về một kinh nghiệm bi thảm con đã trải qua khi con 19 tuổi khiến con muốn xuất gia.

Sự việc xảy ra ở phía Đông thành phố Oakland vào ngày 12 tháng 7 năm 2011 khoảng 9 giờ 30 tối. Con đã bị cướp trên đường bởi một người Mỹ gốc Phi châu khi cách nhà con không xa lắm. Người đó đã chĩa súng vào mặt con và đã bắn con trong khoảng cách không tới 10 feet (khoãng 3 mét) . Viên đạn đã xuyên qua và phá hủy động mạch cảnh trong vùng cổ. Sau khi bị bắn, con đã ngã quị bị nghẹt thở do máu của con. Con khạc nhổ ra rất nhiều máu và cảm thấy như ngất xỉu.

Khi đi về nhà, con tự hỏi: "Con đã làm điều gì sai? Mà sao con có quả báo như thế này?”

Con cảm thấy rất bối rối vì con không biết cuộc đời của con sẽ ra sao sau sự việc này? Tâm trí của con như bị bế tắc. Con không biết con đã đi đúng hướng không bởi vì con đã lập kế hoạch cho việc học hành của con, nhưng con cảm nhận rằng tai nạn này sẽ thay đổi tất cả mọi thứ.

Khi con về đến nhà, con đã gọi mẹ con và kể với mẹ những gì đã xảy ra. Mẹ con bảo với con gọi cảnh sát, đồng thời gọi dì thứ năm của con qua kiểm tra xem con có ổn không. Sau đó con gọi cảnh sát và họ cho xe cứu thương đến nhà con.  Sau khi cảnh sát đến, con đã kể lại chuyện đã xảy ra và họ đã bảo con vào xe cứu thương để họ có thể đưa con đến bệnh viện Highland.

Con nói với họ rằng con muốn đợi cho dì con đến đã để dì có thể đi với con và thông báo cho gia đình con, nơi con sẽ đi đến và những gì xảy ra. Sau khi dì của con đến, con vào trong xe cứu thương. Người y tá bên trong xe cứu thương hỏi con rằng con vẫn bình thường chứ và có đau đớn gì không. Con nói rằng con cảm thấy rất đau ở cổ và khi con cảm thấy tất cả mọi thứ được an ổn, con đã bất tỉnh.

Khi đến phòng cấp cứu, các bác sĩ đã chụp hình toàn thân để tìm những cơ quan tổn thương. Ban đầu con cảm giác không sao, nhưng một vài giờ sau đó, con bắt đầu khó thở. Con cảm khó thở bởi vì con đã bị xuất huyết bên trong quá nhiều từ động mạch bị thương tổn, đã có quá nhiều máu tràn vào phổi của con. Bác sĩ đã phải giải phẫu mở khí quản cấp cứu.

Sau khi giải phẫu mở khí quản, họ bắt đầu thực hiện phẫu thuật cho động mạch bị tổn thương. Các bác sĩ đã phải cắt 2 inch (gần 5cm) một mạch máu từ mắt cá chân trái của con để sửa chữa động mạch đã bị thương tổn. Ca giải phẫu kéo dài từ 6 đến 7 tiếng đồng hồ. Sau ca mổ, bác sĩ đã thông báo cho gia đình của con về tình trạng hiện tại. Ông nói rằng con đã rất may mắn bởi vì nếu viên đạn đi sâu hơn một vài cm và chạm đến cột sống, thì con có thể bị liệt . Bác sĩ đó cũng nói rằng sức khoẻ của con rất tốt vì hầu hết mọi người đều chết khi mất lượng máu nhiều như con đã mất.

Sau đó ông bác sĩ nói với gia đình con rằng họ đã sửa lại động mạch bị tổn thương, nhưng họ sẽ phải xem lại ngày mai là máu có thể dẫn về não hay không. Ông nói rằng nếu máu không có khả năng dẫn lên thì con sẽ có nhiều nguy cơ bị hôn mê, hoặc ngay cả có tỉnh dậy đi chăng nữa con có thể sẽ không trở lại bình thường. Mẹ con gần như ngất đi khi nghe điều đó.

Mẹ con đã đi đến Tu viện Kim Sơn Thánh Tự và nói với một Sư Cô về tình hình của con hy vọng rằng họ có một giải pháp giúp con. Sư Cô cho biết có lẽ là do nghiệp của con và bảo mẹ con giúp con bằng cách tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Các Sư Cô cũng nói rằng họ sẽ tụng Kinh cho con. Hai dì của con là Phật tử cũng tụng Kinh cầu an cho con trong suốt thời gian đó.

Về phía gia đình bên mẹ con, con có tổng cộng khoảng hai mươi người anh em họ. Tất cả mọi người đã đến thăm con. Vào thời điểm đó, bất cứ ai nhìn thấy con đều khóc vì con trông giống như một khối thịt hỗn độn. Cổ con sưng phù lên rất lớn như thể con có hai đầu vậy. Sau khi họ đã đến thăm con, hầu hết trong số họ nguyện rằng sẽ ăn chay một ngày cho Halminton (tên của con). Bà của con nói rằng bà ấy sẽ ăn chay trong một tháng và niệm danh hiệu của Đức Phật cho con, hy vọng rằng con sẽ được tốt đẹp.

Các bác sĩ đã cho con thuốc mê trong suốt một tuần rưỡi. Suốt thời gian đó, con có cảnh giới trong đó con thấy đã đến Vạn Phật Thánh Thành, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật đột nhiên xuất hiện và nói rằng con có thể trở lại trong bảy ngày để xuất gia. Khi con tỉnh dậy sau ảnh hưởng thuốc mê và thấy mẹ con, con đã nói với bà ấy rằng con phải trở về Vạn Phật Thánh Thành và xuất gia. Bất chấp tình trạng sức khỏe của con, con đã rất quyết tâm rời khỏi bệnh viện.

Một người dì của con đã rất lo lắng và quyết định gọi đến Vạn Phật Thánh Thành để kể về những việc đã xảy ra. Người họ nhờ nói lại với Thầy Phương Trượng là Thầy Thân Quang. Thầy Phương Trượng nói với Thầy Thân Quang chuyển lời đến gia đình con là nói với con đừng quá lo lắng. Ông nói rằng cần thời gian để lấy lại sức khỏe và sau khi hồi phục hoàn toàn thì con có thể trở lại. Ông cũng nói rằng ông sẽ nhờ những vị phía nam giới ở Chùa Vạn Phật cầu nguyện cho con.

Các bác sĩ bắt đầu cho con thực phẩm để ăn để xem nếu con có thể nuốt được không, nhưng con bắt đầu bị sặc thức ăn.

Họ không biết lý do tại sao con bị sặc bởi vì khi bệnh nhân bị giải phẫu mở khí quản thì chỉ là không thể nói chuyện, nhưng con đã không thể ăn, uống, hoặc nói chuyện. Vì vậy, trong thời gian đó, con chỉ có thể giao tiếp bằng cách viết trên giấy. Các bác sĩ chưa cho con ăn bởi vì họ đã không thể tìm ra nguyên nhân bị sặc, vì vậy con được nuôi ăn bằng chất lỏng qua đường tĩnh mạch.

Các bác sĩ đã bắt chụp hình phần cổ của con để xem là động mạch đã bình thường hay chưa. Mọi thứ dường như tốt đẹp, vì vậy họ muốn con xuất viện. Đột nhiên một trong các bác sĩ đã đề nghị rằng con nên chụp hình kỹ hơn phần cổ của con. Họ bất ngờ tìm thấy một bong bóng không khí bên trong động mạch. Họ thấy rằng bóng khí đang lớn rất nhanh và nếu bong bóng bể vỡ, con sẽ bị đột quỵ. Các bác sĩ nói con đã rất may mắn bởi vì nếu họ không làm thêm chụp hình chi tiết và cho xuất viện về nhà, thì con sẽ bị đột quỵ trong vòng một tuần lễ.

Bệnh viện Highland không có bất kỳ chuyên gia trong loại phẫu thuật này, vì vậy họ đã chuyển con đến một bệnh viện chuyên khoa về vấn đề này. Các bác sĩ vội vã tìm bệnh viện gần nhất có thể sẵn sàng cho cuộc phẫu thuật loại này bởi vì bong bóng không khí còn nghiêm trọng hơn so với việc tổn thương động mạch. Họ nói rằng bong bóng không khí nghiêm trọng hơn vì họ không biết họ còn bao nhiêu thời gian, nó có thể bể vỡ bất cứ lúc nào.

Bệnh viện gần nhất họ tìm thấy là "Bệnh viện đa khoa San Francisco (SFGH)." Vào ngày hôm đó, con đã may mắn vì họ đã giữ được một chỗ cho con, và vì vậy con đã được chuyển đến bệnh viện khoảng lúc 3 giờ sáng đêm đó. Gần hai tuần rưỡi con chưa ăn được và sau khi con đến Bệnh viện đa khoa San Francisco, con cảm thấy rất yếu và đói. Họ lập tức khám kiểm tra ngay sau khi con đến bệnh viện này và nhận thấy bong bóng không khí thậm chí còn lớn hơn trước.

Họ đã kiểm tra lịch làm việc để xem có bác sĩ nào có khoảng thời gian còn trống không. Nếu có, con có thể được sắp xếp để giải phẫu, các bác sĩ muốn con được giải phẫu càng sớm càng tốt. May mắn thay, bác sĩ đã có thể tìm được chỗ thời gian trống. Ông quyết định ca phẫu thuật của con sẽ được tiến hành ngày hôm sau vào buổi chiều.

Ngày hôm sau, bác sĩ đã giải thích ngắn gọn các thủ thuật giải phẫu. Ông nói rằng có hai phương pháp, một là vĩnh viễn, và một phương pháp khác là tạm thời. Phương pháp vĩnh viễn là bơm phồng một quả bóng vào động mạch để đóng kín lại ngăn bong bóng khí không bị bể vỡ ra. Nhưng nếu một nửa cơ thể của con bị liệt khi quả bóng được bơm căng, nó sẽ có nghĩa là quá trình thực hiện thủ thuật này không hiệu quả và họ sẽ phải sử dụng phương pháp tạm thời. Kỹ thuật phẫu thuật tạm thời là để ngăn chặn bong bóng khí không cho nó bể vỡ ra, nhưng sau 4 đến 5 năm, con vẫn sẽ có một cơn đột quỵ. Và con phải tỉnh táo trong suốt ca mổ. Khi họ từ từ thổi bong bong, bác sĩ nói với con nên cử động các ngón tay và ngọ nguậy ngón chân để bảo đảm rằng nửa phần còn lại của cơ thể của con đã không bị tê liệt. Rủi ro liên quan đến giải phẫu này là nếu các bác sĩ vô tình chạm vào bong bóng hoặc nếu bong bóng khí bể vỡ trong khi phẫu thuật, con sẽ bị đột quỵ. May mắn là phương pháp vĩnh viễn này có hiệu quả và con đã ổn định.

Sau ca mổ đó, các bác sĩ đã tìm lại bệnh án của con trước đó để xem và tìm hiểu lý do tại sao con đã không thể dung nạp được thức ăn hoặc chất lỏng. Sau đó, họ gửi con đến bác sĩ Tai Mũi Họng để xem họ có thể tìm ra nguyên nhân cho vấn đề này hay không. Trong lần khám với bác sĩ tai mũi họng này, họ khám phá ra rằng các dây thanh âm của con đã không hoạt động. Họ nói rằng con bị liệt dây thanh âm.

Họ không biết chắc vì sao nó bị tổn thương, nhưng họ suy đoán rằng có thể thương tổn này xảy ra khi thực hiện giải phẩu mở khí quản khẩn cấp. Các bác sĩ không biết chắc tổn thương này là tạm thời hoặc vĩnh viễn, nhưng họ muốn con ăn để có dinh dưỡng. Họ đã sắp xếp lịch trình giải phẫu để đặt một ống truyền thức ăn vào trong bao tử của con.

Các bác sĩ nói với con rằng đây là giải phẫu đơn giản và hầu hết bệnh nhân trải qua giải phẫu này có thể trở lại sinh hoạt bình thường vào ngày kế tiếp. Mặc dù giải phẫu này nghe có vẻ đơn giản, con không biết lý do tại sao con đã có một dự cảm xấu về nó. Con quyết định thực hiện phẫu thuật này vì các bác sĩ cho biết khi con được đặt ống nuôi ăn, con có thể được xuất viện.

Sau phẫu thuật đặt ống dẫn thức ăn, con cảm thấy rất đau ở bao tử. Các bác sĩ nói đó là bình thường vì họ phải dùng kim chọc thủng xuyên đến bao tử của con, nhưng bởi vì con rất đau đớn, họ bắt đầu cho con thuốc giảm đau. Con bị đau đớn trong khoảng một tuần. Trong tuần đó, nhiều người thuộc sở xã hội đã đến thăm và muốn con được xuất viện.
  
Cuối cùng, sáng hôm sau khi các bác sĩ đi thăm bệnh, một bác sĩ đã kiểm tra khám bụng phần bao tử của con và thấy rất nhiều mẩn đỏ trên bề mặt. Cô bác sĩ ấy nói con bị nhiễm trùng và con đã không được đi đâu cả. Đêm hôm đó, họ đã sắp xếp cho con một cuộc phẫu thuật để làm làm sạch vi khuẩn. Sau phẫu thuật này bao tử của con không đau nữa, nhưng con vẫn phải uống thuốc kháng sinh. Con được điều trị bằng kháng sinh khoảng hai tuần. Sau đó cuối cùng con đã được xuất viện.

Con đã phải nằm bệnh viện trong khoảng 2 tháng. Hơn nửa năm con đã không thể ăn, uống, nói chuyện. Trong suốt 7 tháng hồi phục, hầu hết thời gian con đều ở nhà. Con chỉ đi đến khoa tai mũi họng để tái khám. May mắn con đã không phải thực hiện những ca giải phẫu thêm nữa bởi vì dây thanh âm của con có thể tự lành.

Kinh nghiệm tâm linh con đã có khi con ở bệnh viện khiến con nhận ra con đường đúng mà con nên đi. Trong nhiều năm qua, con đã nhầm lẫn và lạc lối. Con luôn luôn nghĩ rằng võ thuật là điều quan trọng nhất, nhưng ngay lúc con thấy vết sẹo của con trong gương, con biết rằng cơ thể của con là vô thường.

Đây cũng là một trong những lý do tại sao con không làm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ mặc dù bảo hiểm của con chịu chi trả. Một số thành viên trong gia đình con la mắng con nói rằng con đã ngu ngốc không lựa chọn phẫu thuật thẩm mỹ vì nó được miễn phí. Hầu hết họ không thể chấp nhận thực tế rằng con sẽ xuất gia. Họ hy vọng rằng con sẽ lựa chọn phẫu thuật và tiếp tục cuộc sống bình thường của con, nhưng con không thể gạt bỏ tất cả những đau khổ con đã trải qua.
Trải qua đau khổ đã làm thay đổi cách suy nghĩ của con. Con đã từng nghĩ rằng con có thể kiểm soát mọi thứ trong cuộc đời của mình, nhưng con nhận ra rằng con đã sai lầm. Con không thể kiểm soát được bất cứ điều gì. Nằm bệnh viện là kinh nghiệm đáng sợ nhất trong cuộc đời của con. Con đã trải qua những cuộc giải phẫu liên tục. Nhưng trải qua chúng cũng đã thúc đẩy con tu hành. Con nhận ra rằng điều quan trọng nhất trong cuộc sống là để tu hành và để chấm dứt sanh tử.
A Di Đà Phật!

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

TÔN ẢNH PHẬT, BỒ TÁT ĐẸP

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát







Hòa Thượng Tuyên Hóa

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

NHỮNG CÂU CHUYỆN PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU 4 - TRÍCH CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

11- Không nhiễm nữ sắc.
Câu chuyện dưới đây xảy ra lúc Ngài đang nhậm chức Hội Trưởng Hội Đạo Đức Huyện Song Thành,Thị Trấn Lạp Lâm. Một hôm Ngài ngồi dưới gốc cây đọc bài ký thuật, đến đoạn Trương Giám Lý trọng đức viễn sắc, Ngài cảm kích vô cùng bèn ngưỡng lên trời phát nguyện: Xin Trời cao chứng tri, từ đây về sau, con nguyện theo gương sáng của Ngài Trương Nhã Hiên.

Thông thường khi có người phát tâm tu hành tinh tấn thì họ thường gặp nhiều thử thách. Ngay đêm hôm đó có một người đàn bà nhan sắc mỹ miều, lẻn vô văn phòng Ngài rồi dùng sắc đẹp, tiền tài để cám dỗ Ngài, Ngài giữ chánh niệm và nghĩ rằng: Có lẽ người nữ này do Trời cao giả dạng để thử thách lòng thành của ta nên Ngài chí tâm niệm Phật. Nàng kia vẫn cố tình quyến rũ, Ngài nghiêm sắc mặt hỏi cô ta:

- Là một Hội viên của Hội Đạo Đức, ngươi hẳn biết luật nhân quả, vậy giờ ngươi muốn đi lên hay muốn xuống địa ngục?

- Lẽ tất nhiên tôi muốn đi lên.

- Thì ngươi không được hành động như vậy nữa, nếu không thì ngươi chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục thôi.

Thấy Ngài chánh khí lẫm liệt người nữ kia hổ thẹn và âm thầm bỏ đi.

12- Oai đức phục tà.

Khi Ngài làm việc trong Hội Đạo Đức biến cố sau đây xảy ra: Một hôm, có một hội viên tên Thái Thục Khôn bỗng nhiên trở nên điên loạn, tựa hồ như bị ma quỷ nhập, y nói toàn những lời xằng bậy tự xưng,

- Ta là Hoàng Đại Thiên vì các ngươi không kính phục ta nên ta đến để răn dạy các ngươi đây...

Khi ấy Ông Cảnh Tú Bân, Trưởng ban giảng huấn của Hội Đạo Đức bước lên giảng giải lời hơn lẽ thiệt nhưng Thái Thục Khôn vừa chửi mắng vừa làm náo loạn không nghe lời khuyên, Ông Trưởng ban Tư Pháp và ngay cả Ông Hội Trưởng bước ra khuyên giải nhưng đều bị nhục mạ không phục. Ngài bèn bước tới và tuyên bố rằng:

- Hội Đạo Đức là đoàn thể noi theo luân thường đạo lý của Đất Trời, ngươi đến phá rối hội này tức là nghịch Thiên lý; Vì lẽ đó ta nay phải “thế thiên hành đạo” để trừng phạt ngươi, tuyệt đối ngươi không thể thoát được.

Nghe xong Thái Thục Khôn sắc mặt run sợ, nói:

- Thôi...thôi...., tôi...đi đây.

Lúc đó người bị quỷ ám muốn đi mà không cất chân lên được, nên y càng kinh hãi liền quỳ xuống trước mặt Ngài dập đầu cầu thỉnh:

- Xin Ngài từ bi thứ tội cho, từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ dám nhiễu loạn Hội này nữa.

Thấy y đã hối cải. Ngài bảo:

- Ngươi tự biết ăn năn, nay ta tha cho ngươi có thể đi, nếu còn tái phạm thì ta sẽ không dung thứ đâu.

Khi hồn ma vái lạy rồi bỏ đi, thì Thái Thục Khôn cũng chợt tỉnh lại. Từ đó không còn chuyện như thế phát sanh nữa.

13- Cư tang bên mộ từ mẫu.

Năm mười chín tuổi, Thân Mẫu Ngài lâm bệnh không cử động được, Ngài săn sóc mẹ giặt áo quần, đút thức ăn và chu toàn mọi sự với lòng chí hiếu. Gần Thị trấn Hợp Nhĩ Tân, Bối Âm Hà, có một con hồ ly tinh rất nhiều quyền pháp mà người ta gọi là Hồ Tiên; nó có thể biến hóa thành nhiều hình tướng khác nhau. Khi người Nhật xâm chiếm Mãn Châu, vị Hồ Tiên này kháng cự lại người Nhật, quân đội Nhật đã bí mật cất một lò nấu dầu sôi bằng điện, và họ đã chở những người mà họ muốn bỏ vào vạc dầu đến đó, cách thức thủ tiêu này rất hiệu nghiệm vì không để lại dấu vết gì.

Hồ Tiên bèn biến thành một người già và đi vào khu này. Người Nhật bắn vào ông, nhưng ông không hề hấn gì và ông còn làm nổ tung vạc dầu; nhiều quân Nhật đã bị chết trong vụ này và số còn lại phải rút đi nơi khác vì cho là bị ma ám.

Người ta cũng biết rằng Hồ Tiên có thể chữa nhiều bệnh, ai muốn cầu được trị, chỉ cần đến chỗ ông ta đặt một cái bát và phủ lên một miếng vải đỏ rồi nói lên lời khẩn cầu. Nghe vậy Ngài đến chỗ ông Hồ Tiên để xin chữa bệnh cho mẹ và đặt cái bát, quỳ xuống xin được giúp đỡ và chờ đợi, Ngài đã quỳ liên tiếp trong ba ngày ba đêm không động đậy, không đứng dậy cũng không ăn uống gì cả, nhưng chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng đến ngày thứ ba Ngài bỏ ra về và chẳng bao lâu mẹ Ngài tạ thế.

Khi ấy là hạ tuần tháng ba âm lịch, những cơn gió ấm mùa xuân làm tuyết tan nên đuờng xá lầy lội khó đi; Vì lẽ mộ phần xa đến hơn mười dặm, trước ngày di chuyển quan tài gia quyến cùng thân hữu rất lo lắng không biết làm sao để khiêng quan tài đến nơi. Đêm đó (trước hôm tang lễ) Ngài thầm lặng cầu xin Long Thiên rằng: Xin cho tuyết rơi hay khiến nước đông lại; đến canh năm, khí hậu đột nhiên chuyển biến, lại thêm gió Bắc thổi đến nhiệt độ hạ xuống và tuyết liền rơi. Ngày thứ hai đất phủ tuyết trắng xoá, đường lộ bùn lầy hôm trước nay được tuyết phủ trở nên khô ráo. Dân làng thấy thế đều biết là do lòng hiếu hạnh của Ngài mà cảm động trời đất; khoảng bốn mươi người đã tham dự tang lễ. Lễ an táng xong, mọi người đều trở về nhà; duy Ngài vẫn ở lại bên mộ phần của mẹ tọa thiền, kiên trì thủ hiếu.

Sau khi mọi người đã đi, khó khăn bắt đầu; Ngài ngồi được một ngày thì hôm sau có một bầy chó sói tới, trông chúng thật là khủng khiếp, và người ta nói rằng chúng đã ăn thịt người; Ngài tự bảo rằng:- Ta hãy coi chúng như không có. Nếu chúng là cọp dữ ta cũng không sợ nữa vì ta đang hành trì hiếu đạo để trả hiếu cho mẹ, và nếu ta bị những con chó dữ này ăn thịt, thì âu cũng là một sự hy sinh tôn quý.

Những con chó sói khi tiến tới gần, chúng nép mình sát đất gầm gừ một cách hung dữ. Từ khoảng ba mươi bộ chúng bò tới cho đến khi chỉ còn cách Ngài khoảng mười bộ. Rồi bỗng nhiên cả bầy quay đầu lại và bỏ đi, nếu Ngài chạy có lẽ Ngài đã bị những con chó sói ăn thịt, nhưng vì Ngài ngồi bất động nên chúng tưởng rằng, Người này không làm phiền chúng ta, cho nên chúng ta cũng không làm phiền ông ấy.

Nhiều người dân vùng này thường bị những con chó sói rượt đuổi, nhưng chúng không bao giờ làm phiền những người đến thăm Ngài.

Xuất gia không được bao lâu thì Ngài đến thăm một người bà con, người này rất tin Hồ Tiên và đã mời Hồ Tiên đến nhà để cúng dường; khi Hồ Tiên đến và thấy Ngài, y liền quỳ xuống và xin Ngài nhận làm đệ tử. Ngài hỏi:

- Ông là ai?

- Tôi là Hồ Tiên ở Bối Âm Hồ.

- Thật sao? Tôi đã quỳ ba ngày liên tiếp để xin ông cho thuốc mà ông không cho và bây giờ lại muốn tôn tôi làm Thầy - Có lý nào?

- Dạ không phải vậy! Không phải là tôi không muốn cho Ngài thuốc. Tôi đã muốn đưa thuốc để được thân cận Ngài, nhưng mỗi lần tôi đến gần, tôi không mở mắt ra được; Lúc bấy giờ tôi đã muốn quy y Ngài, nhưng tôi không thể nào đến gần Ngài được.

Nghe lời này của Hồ Tiên, quý vị có thể lấy làm lạ tại sao cứ mỗi lần muốn đưa thuốc cho Ngài, Hồ Tiên không mở mắt ra được, nhưng nếu quý vị không hiểu, thì cũng chẳng có cách gì giải thích cho quý vị được; khi vẽ một hình người, người ta vẽ những đường nét vòng ngoài chớ không vẽ ruột gan. Để có thể biết Hồ Tiên đã thấy gì, quý vị cần phải tu hành chuyên cần nghiêm túc, và quý vị sẽ tự thấy câu trả lời.  


In Manchuria: A Buddha Living in the World - Respectfully written by Upasaka Shi QiNgày mồng 8 tháng 4 âm lịch, Ngài đến Tam Duyên Tự gần ga xe lửa Thôn Bình Phòng ở phía Nam Thành phố Hợp Nhĩ Tân (Harbin) chánh thức xuất gia thọ mười giới Sa Di do Hòa Thượng, thượng Thường hạ Trí truyền giới rồi Ngài trở lại mộ phần của mẹ, một vị cư sĩ dùng rơm tranh cất một cái lều dài tám bộ rộng năm bộ chỉ vừa đủ cho một người ở, căn lều có thể ngăn gió che mưa, nhưng thật ra trong lều và ngoài lều không khác; chỉ mặc một chiếc áo rách Ngài nhận chịu cái lạnh ghê gớm của mùa đông và cái nóng kinh người của mùa hè Mãn Châu. Ngài hành trì hiếu đạo theo tục cổ truyền bằng cách canh chừng phần mộ của mẹ trong ba năm, Ngài chỉ ăn một bữa ngọ mỗi ngày và không bao giờ nằm xuống để ngủ.
Ngài đã đọc nhiều Kinh sách bên mộ phần của mẹ. Trước hết Ngài đọc kinh Pháp Hoa và hết sức vui mừng. Ngài kể: Tôi đã tụng Pháp Hoa trong khi quỳ liên tiếp bảy ngày bảy đêm quên ăn quên ngủ đến nỗi máu ứa ra từ mắt tôi; kế đến tôi đọc Kinh Lăng Nghiêm, tâm bừng ngộ thật khó diễn tả.

Ngài đã nói: Tu hành đơn giản chỉ là chịu đựng cái gì không chịu đựng nổi tôi phải quyết tâm, cái gì người khác làm không được, tôi làm, cái gì người khác chịu khổ không được, tôi chịu, cái gì người khác ăn không được, tôi ăn. Thanh tịnh tâm ý cho đến mức không có một niệm khởi lên vì ham muốn một miếng ăn hay một giọt nước. Quý vị bảo rằng tôi không làm được? Vậy hãy làm cái gì mà quý vị cho rằng không làm được! Đó là hành trì, và đó là điều duy nhất đáng kể.