Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU: TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM TRÁNH NẠN MA QUỶ

          Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện kể sự mầu nhiệm chú lăng nghiêm mong những ai học Phật bị quấy phá có cách tự bảo vệ mình.
          Đây là câu chuyện có thật của con, nếu sai sự thật, con nguyện chẳng ai xem được bài này!
          Đầu tiên, con xin kể đều này: các bạn có từng thấy ma, thấy quỷ chưa? Liệu các bạn tin trên đời này có sự tồn tại của họ chăng? Nói thật lúc đầu con hoàn toàn không tin. Cho đến khi chính con gặp được pháp môn tổ sư thiền-là pháp thiền tham thoại đầu-pháp môn đốn ngộ- rắc rối mới đến (con không định kể chuyện này ra nhưng vì thấy chúng cứ gây rắc rối cho người tu hành con phát tâm kể) Nếu như con không gặp pháp môn này và kinh Pháp Hoa hay chú đại bi, có thể con sẽ không gặp chúng. Có người thắc mắc hình dạng chúng ra sao? Con chỉ biết hình dạng kẻ mà con từng gặp nên kể cho mọi người nghe: 
           1) Ma: bận đồ trắng, xả tóc hay hù dọa người nhưng rất sợ người niệm Phật, chú, kinh,...Tóm lại không cần phải sợ họ mà nên phát tâm cứu họ vì họ thật sự cô đơn và luôn cầu người giúp đỡ.
           2) Qủy: có nhiều loại, thứ mà con thấy không biết thuộc loại nào nhưng có thể mô tả sau: tóc dựng đứng, mặt mũi chẳng phải người, rất sân hận, ghét người tu hành, có thần thông và đặc biệt sợ chú Lăng Nghiêm, con đảm bảo mọi người thấy nó hằng ngày mà không nhận ra đó thôi. VD: các kiểu tóc của nhân vật trong truyện tranh khá giống kẻ con thấy, đôi khi chẳng khác tí nào. Nhờ vậy, con mới hiểu ra rằng: GIÁO DO MA CHỦ, TÂM TA TỨC PHẬT, hễ ai phát bồ đề tâm hay làm việc lành đảm bảo 100% ma vương hay quỉ kéo cả dòng họ nó đến phá. Con từng bị rồi, đủ thứ luôn. Nhưng hãy yên tâm mỗi ngày trì chú Lăng Nghiêm+ Đại bi, 100000000 tên như ma vương cũng chẳng làm gì được. Nhưng hãy nhớ luôn giữ chánh niệm hễ đễ mất chánh niệm vô cùng nguy hiểm. Còn loại nữa, nó rất nóng, có bữa con tham thoại đầu bị nó phá mấy lần, bị nó sờ mặt, con nóng quá trời, con muốn phát bệnh luôn. Một điều quan trọng: đừng bao giờ nói chuyện với nó như thầy từng dạy: nói chuyện với Phật thành Phật, nói chuyện với ma thành ma.
           Thứ hai, con nhận ra rằng chúng rất sợ người ta nhận ra nó và điểm yếu của nó. Nay con xin nói ra, chúng rất sợ người ta đọc + hiểu ý nghĩa kinh Pháp Hoa, vì con từng bị và theo lời Phật dạy nên con chắc chắn. 
           Thứ ba, chúng rất sợ người ta biết pháp môn tham thoại đầu vì hễ ai ngộ thì thành Phật ngay tức thì trong đời hiện tại, chúng sẽ mất đi một mối rồi! 
           Thứ tư, nếu mọi người có thể đọc hết thì có thể chúng chưa nhận ra hay vẫn giữ được chánh niệm, có thần theo hộ vệ, nhưng khi đọc bài này rồi, chớ nghĩ nhiều về chúng mà luôn nghĩ về pháp môn tu của mình, giữ chánh niệm chúng sẽ chẳng có cách nào làm hại. 
           Cuối cùng, hãy luôn làm theo lời Phật dạy, dù sớm dù muộn tin mọi người đều sẽ thành Phật.
          Nam mô A-Di-Đà Phật! Nguyện chỉ ai học Phật mới đọc được bài này.               

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

NHƯ NHƯ-(24) HÒA THƯỢNG QUẢNG KHÂM KHAI THỊ NIỆM PHẬT

1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà
Chúng ta chỉ biết mình do cha mẹ sanh ra. Song trước khi được cha mẹ sanh ra, mặt mũi mình ra sao? Sau khi chết đi, mình sẽ về đâu?
Nay do nghe Phật Pháp, biết có Ðức Phật hiệu A-Di-Ðà là vị đã phát 48 lời nguyện, rằng ai niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương. Nếu Phật có nguyện vậy, thì mình cũng phải phát nguyện: nguyện vãng sanh Cực-Lạc.
Mình phải tin chắc rằng thật có Thế-Giới Cực-Lạc, có Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi A-Di-Ðà; rồi phải luôn luôn niệm Phật để đến lúc lâm chung mình mới có chánh niệm. Khi hấp hối mà có khả năng niệm Phật, thì Ðức A-Di-Ðà ắt sẽ đến tiếp dẫn. Song le, nếu bạn vẫn còn ý nghĩ lưu luyến bất kỳ thứ gì, dù nhỏ như đầu kim, ngọn cỏ ở cõi Ta-Bà này, bạn sẽ lại rớt vào vòng luân hồi!
Cái nghiệp của Phật, Bồ-tát chính là lòng lo lắng cho chúng sanh của các Ngài.
Khi cõi Ta-Bà còn chúng sanh, thì còn Phật, Bồ-tát. Khi chẳng còn chúng sanh, thì Phật, Bồ-tát cũng không còn.
Mau mau tu để về Tây Phương, không thì ở đây khổ lắm! Ở đây bạn thấy nóng nảy, chứ ở Tây Phương thì thanh tịnh, mát mẻ.
Trần gian đầy dẫy đấu tranh – mình phải tìm một nơi an lạc như Tây Phương của Ðức Phật A-Di-Ðà.
Mình đã hồ đồ, mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, mình cần phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết – con đường ấy chính là Niệm Phật A-Di-Ðà.
Tứ Sanh (bốn loại chúng sanh được sinh ra từ trứng, từ thai bào, từ nhiệt độ ẩm thấp, và từ sự biến hóa) đều ở trong vòng luân hồi, không gián đoạn sanh tử. Nguyên do là bởi ý niệm tham lam, phiền não, vọng tưởng… khởi lên khi Sáu Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với Sáu Trần (hình, sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp). Do đó Sáu Căn tác hại lắm.
Ngày nay, bạn mà có thời gian để tu hành là quý báu, khó được lắm đấy. Ðể xem bạn có tìm đặng con đường thoát sanh tử hay chăng. Nếu bạn quá chú trọng, chăm lo cái thân xác này thì bạn chẳng phải tu hành niệm Phật đâu. Quá chăm sóc cái thân xác này, thì không có cách gì giải thoát nổi!
Kinh A-Di-Ðà nói tới Phật ở sáu phương – Ðông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới – đều hiển xuất tướng lưỡi rộng dài (tức là thuyết Pháp), khiến Pháp-âm trùm khắp ba ngàn cõi Ðại Thiên Thế-Giới – chủ yếu đều quy nạp về Tây Phương.
Tây Phương ở đâu? Ở trong tâm mình – khi tâm vô sự, không phiền não, thì đó tức là Tây Phương.
Tuy rằng thân ta hiện sinh ở cõi Ta-Bà, song nếu mình niệm Phật mà niệm tới lúc tâm tịnh, thì cõi Phật sẽ tịnh. Nghĩa là khi tâm thanh tịnh, không phiền não, không vọng tưởng; thì đó là Tịnh-Ðộ – cõi Tịnh-Ðộ ở ngay giữa Ta-Bà – mà tâm tức là Tây Phương.
Tây Phương Cực-Lạc ở tâm ta. Mình cần phải niệm Phật cho tới chỗ tâm thanh tịnh; niệm một cách đầy chú ý, tập trung. Khi niệm Phật, bạn cần phải phát nguyện vãng sanh Tây Phương, rời bỏ trần gian khổ lụy. Chớ nên quá yêu quý, nâng niu cái thân xác thịt này.
Mỗi thế giới cũng như mỗi hạt cát, trong đó có hằng hà sa số chúng sanh mà ai ai cũng có thể sinh về Tây Phương được cả.
Hễ mình niệm Phật thì hoa sen (ở Tây Phương) sẽ nở ra. Do đó nói: “Tâm khai (niệm Phật) thì hoa nở.”
Niệm Phật thì mới khiến ta thật sự thanh tịnh. Niệm Phật là con đường dẫn tới Tây Phương. Hễ niệm Phật thì mình sẽ tới đặng Tây Phương mà chẳng cần phải mua vé tàu, ngồi phi cơ; bởi thuyền Pháp thì không có sắc tướng.
2. Niệm Phật
Niệm Phật, tụng kinh, xem Kinh và nói chuyện là bốn việc mà bạn chắc chắn làm hằng ngày. Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng Kinh và xem kinh sách không nên nhiều hơn thời gian niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.
Xem kinh sách không cần phải quá nhiều. Phàm gặp việc gì, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật” là được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật”.
Bạn hãy yên lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới chỗ chuyên nhất – chỉ một niệm – thì bạn có thể siêu xuất Tam Giới, thẳng tới Tây Phương. Khi tu hành, bạn cần phải tập: mắt nhìn mà giả lờ như không thấy, tai nghe mà giả đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.
Không cần phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả Kinh Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm bạn.
Ði, đứng, nằm, ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật.
Khi định tâm lại niệm, bạn sẽ giác ngộ rằng chúng ta từ sáng tới tối, tâm luôn nhắm mắt ra bên ngoài mà không bao giờ quán xét xem tâm mình có hướng về Phật A-Di-Ðà chăng. Ðừng để cho tâm bạn bị cột vào đám tín đồ, đệ tử, hoặc cảnh giới bên ngoài. Nếu bạn cột vào chúng thì sẽ bị chúng xoay chuyển, lôi đi mất; đáng sợ lắm!
Hiện tại các bạn không đủ chánh niệm, mười phần không được một; do đó thật là nguy hiểm. Khi bạn niệm Phật nhiều thì đó là Thiền sống.
Có kẻ nói là bế quan, song họ đầy dẫy vọng tưởng, đầu não không chút thanh tịnh. Khi bạn ngồi tịnh tọa lâu, thấy mệt thì nên đứng dậy đi rảo.
Khi bạn niệm Phật mà rời được cảnh giới thì đó tức là Thiền. Bạn phải duy trì chánh niệm, bởi vì trong tâm bạn luôn còn rất nhiều chủng tử xấu xa.
Khi niệm Phật mà không có chánh niệm thì lòng bạn luôn nghĩ này nghĩ nọ. Miệng niệm mà tâm hướng ngoại. Nếu bạn thật sự muốn, thì bạn mới làm cho tâm bạn chuyên nhất đặng. Nếu bạn không có lòng muốn tu, thì làm sao niệm Phật (cho thành công)?
Niệm Phật mà rời xa được ngoại cảnh, cùng Phật tương ưng, thì mới biết tâm này và Phật giống nhau.
Việc quan trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng niệm cho rõ ràng.
Niệm Phật tức là vào Trung-Ðạo? không có tốt, không có xấu.
Tuy niệm Phật cũng là một chuyện huyễn hóa, song nó thuộc về chánh niệm. Do đó, mình dùng huyễn (niệm Phật) để diệt huyễn (vọng tưởng).
Hỏi: Niệm làm sao mới chuyên nhất?
Ðáp: Ðây cũng là chấp trước. Chỉ cần bạn đừng để ý gì tới vọng tưởng là được (thì tâm sẽ chuyên nhất). Bởi vì mình tự nhủ lòng rằng: “Ðừng khởi vọng tưởng”; song vọng tưởng vẫn cứ tự dấy khởi. Do đó, hễ để ý tới vọng tưởng thì mình lại sanh thêm một vọng niệm; càng để ý tới nó thì nó càng tăng!
Khi vọng niệm nổi lên, bạn đừng sợ. Hãy mặc kệ, đừng chú ý tới nó là xong. Cứ một lòng niệm “A-Di-Ðà Phật”. Vọng niệm vốn không có thực thể, từ từ nó sẽ tan biến mất.
Hễ nhớ tới niệm Phật thì niệm ngay; không nên chấp trước rằng tôi phải làm thế này thế kia. Niệm Phật là tuy niệm mà không (chấp trước vào) niệm.
Niệm Phật mà còn thấy rằng mình đang niệm hay không niệm, thì đều là chấp trước.
Niệm Phật thì phải tùy duyên. Phàm làm chuyện gì, ở đâu, lúc nào cũng nên tùy hoàn cảnh mà niệm Phật. Không phải nói rằng: “Tôi cần niệm bao nhiêu, bao nhiêu hồng danh”, hoặc “Tôi đang niệm Phật, không thể làm việc được”, hoặc “Tôi đang bận rộn, chưa đi niệm Phật được… ”
Mỗi tâm niệm, mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh giới Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi – nhất cử nhất động, làm gì bạn cũng cứ niệm Phật. Khóc cũng niệm Phật; cất chân một bước cũng niệm Phật. Sức mạnh của việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm Phật Tam-Muội – một thứ Ðịnh không phải tầm thường.
Khi sinh ra, mình đã mang theo trong người đầy dẫy nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp mới để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả!
Hỏi: Niệm đức Phật hay Bồ-tát nào thì tốt nhất?
Ðáp: Tất cả mọi đức Phật và Bồ-tát đều tốt như nhau. Không phải niệm vị này thì tốt hơn niệm vị kia: đó đều là do bạn phân biệt, so sánh mà ra. Chư Phật, Bồ-tát cũng không nhất định cần bạn niệm tên các Ngài nữa.
Niệm Phật tới chỗ tâm định, thì tức là Thiền. Nên nói:
“Vừa Thiền, vừa Tịnh-Ðộ,
Mười người tu, mười người thành.
Có Thiền, không có Tịnh-Ðộ,
Mười người tu, chín kẻ lạc đường!”
Vừa tịnh tọa vừa niệm Phật, thì tương đối không đi lầm đường hoặc xảy ra nguy hại.
Nếu tâm bạn còn tham muốn, ham thích, vương vấn chuyện gì, thì khi lâm chung việc đó sẽ hiện ra. Bấy giờ, nếu bạn thấy cảnh đó rồi nảy lòng yêu thích, sanh tâm truy đuổi nó, thì kết quả là bạn sẽ lọt thẳng vào vòng luân hồi!
Nếu bạn biết dọn lòng trong sạch niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có hoa sen, Phật, Bồ-tát và cảnh giới thù thắng hiện ra. Do đó, lúc còn sống bạn cần phải tu để trừ cho sạch hết những ham muốn trần tục.
3. Khai-thị lúc Phật-thất:
Mục-đích đả Phật-thất là để độ chúng sanh vãng sinh Thế-giới Cực-Lạc.
Cõi Ta-Bà thì có sinh có diệt; cõi Tây Phương thì bất sinh bất diệt. Mình đi xuất ngoại thì cần tiền mua vé máy bay, chớ tới Tây Phương thì chỉ cần niệm Phật đến độ chuyên nhất, không còn sắc tướng (chấp trước). Ðó chính là “bất sinh bất diệt” vậy. Phải niệm Phật thì mới có chỗ để mình ký thác thân mạng này.
Niệm Phật thì phải niệm niệm không xa rời Phật. Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe, miệng thầm niệm – cứ thế mà nhiếp tâm chuyên chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên ngoài; cứ nương theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập trung, chuyên nhất. Bất kể là “người niệm” hay “tiếng niệm”, bất kể là “tôi niệm” hay “bạn niệm”; đại-chúng ai cũng nương theo tiếng niệm Phật thì tâm sẽ chuyên nhất. Tây Phương Cực-Lạc lại cũng dựa theo tiếng niệm Phật này.
Khi đả Phật-thất, bạn chớ để cho ý niệm trần tục lôi kéo tâm mình. Nếu không chuyên tâm, thật uổng cơ hội quý báu này.
Do vậy, hãy một lòng một dạ niệm Phật, chuyên chú vào tiếng niệm.
4. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không?
Hỏi: Phải chăng niệm Phật thì có thể thấy Phật?
Ðáp: Không thể có!
Hỏi: Nếu vậy trong chương Ðại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông có câu:
“Nếu ai nhớ Phật, niệm Phật,
thì bây giờ hoặc mai sau nhất định thấy Phật;
Chẳng cần phương tiện gì cả, tự mình lòng dạ mở khai.”
là ý gì?
Ðáp: Ðúng! Lòng dạ mở khai tức là thấy Phật, thấy đặng vị Phật của tự-tánh.
Chư Phật và Bồ-tát đều có nguyện lực mà ta có thể dựa vào đó để tu hành. Vì thế, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, bạn chớ rời tiếng niệm Phật. Khi niệm Phật thì mình mới tương ưng với Phật; đây là cảnh giới không có hình hài, sắc tướng gì cả.
Ðừng nên chấp trước, tự hỏi tại sao Ðức A-Di-Ðà không hiện hình ra tiếp dẫn!
5. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng
Coi thầy công phu hành trì trình độ tới đâu, (tôi nói để thầy nghe) chớ khi lâm chung thầy cần không vương vấn, quái ngại bất kỳ việc gì thì mới vãng sanh được.
Nếu thầy còn tham vọng muốn độ chúng sanh, thì tham muốn ấy cũng là một thứ chấp trước, một thứ quái ngại!
Hòa-Thượng hỏi: Tây Phương ở đâu?
Thầy Quảng-Hóa đáp: Nói theo phương vị, thì nó ở phương Tây; nói theo thực tướng, thì nó ở tại lòng mình.
Hòa-Thượng nói: Hễ có Phật có Bồ-tát, thì có Tịnh-Ðộ. Thầy phải giảng dạy sao cho người nghe có chỗ nương tựa để tu hành.
Ðức Phật dạy rằng nếu người nào trong một ngày, hai ngày…, cho tới bảy ngày mà có thể niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì Phật (A-Di-Ðà) sẽ đến tiếp dẫn. Song, nếu không ăn không ngủ thì chẳng cần tới bảy ngày, chỉ bốn hay năm ngày là đủ rồi!
Thầy Quảng-Hóa nói: Có lần tôi chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện ra với tướng mạo trang nghiêm đẹp đẽ; cả chuỗi anh lạc của Ngài cũng tuyệt đẹp.
Hòa-Thượng cười, nói rằng: Thật sao? Ở đâu mà có Bồ-tát như thế?
Khi thầy độ chúng sanh, thầy cần phát nguyện rồi theo đó mà thực hành, như Ðức Quán-Âm, Phổ-Hiền vậy. Song, đến khi lâm chung, thầy phải buông bỏ hết mọi thứ. Nếu nguyện của thầy chưa làm xong, thì thầy sanh trở lại đây để tiếp tục độ sinh; công đức này càng thù thắng, vĩ đại. Nguyện là thứ thầy ghi tạc ở trong lòng.
Phật và Bồ-tát tuy đã thị hiện nhập Niết-Bàn, song thật sự các Ngài vẫn còn quanh quẩn, không rời những kẻ đang tu hành như chúng ta; có điều các Ngài không hiện ra thôi.
Chỉ cần Kinh, Luật, Luận tồn tại, chư Phật, Bồ-tát có thể dạy mình.
Ðừng cho rằng không có ai truyền thọ, rồi không còn (Phật Pháp) gì nữa.
Khi lâm chung, đừng nên để tâm muốn thấy hình tướng chư Phật, Bồ-tát.
Cầu mà không thấy là việc tốt.
Nếu cầu mà thấy, thì những hình tướng đó không đáng tin cậy đâu.
Phải không mong cầu gì; chỉ tịnh tâm niệm Phật. Phật, Bồ-tát từ trong chân tâm thanh tịnh hiện ra thì mới thiệt đúng.
Phải buông bỏ (sự chấp trước vào) tấm thân thối tha này. Tâm là tâm. Mặc kệ cái thân này biến thành tròn hay méo, đừng để ý lo lắng, chiều chuộng nó. Chẳng cần nói xa xôi, hễ có chứng đắc, thâu hoạch được cái gì thì vẫn còn chưa đúng. (Ý Hòa-Thượng muốn chỉ sự chấp trước của Thầy Quảng-Hóa, rằng Thầy còn chấp vào sự kiện mình đã chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện thân).
Trong cái này (Hòa-Thượng chỉ vào tâm Ngài), chẳng có vật gì cả. Các vị đó (Hòa-Thượng chỉ nhóm cư-sĩ tại gia đang ngồi nghe giảng) thì vẫn còn đủ thứ.
Hiện tại, các bạn đêm ngủ nằm mộng mà sáng ngày ra cũng là ở trong mộng.
Các bạn hệt như đang đóng phim vậy; cuốn phim này dài lắm – cả đời bạn, song chẳng khác gì giấc mộng ban đêm!
(Hòa-Thượng khuyến khích Thầy Quảng-Hóa niệm Phật bằng thực-tướng – hình tướng chân thật thì không hình hài, không sanh diệt; tức là chân tâm? chứ đừng niệm Phật bằng sự-tướng – còn chấp trước vào hình hài, sắc tướng, công việc trần gian thế sự).
Ngày hôm nay tôi nói bấy nhiêu thôi. Kẻ xuất gia thì sẽ lãnh hội được phần nào, chứ người đời thì không có ai hiểu.
Xưa kia cổ nhân chỉ nói một câu là đủ, hôm nay tôi nói quá nhiều! Chờ khi về rồi, các bạn từ từ lãnh hội thì sẽ giác ngộ, thấu suốt hết.
Theo: “Cẩm Nang Tu Đạo” của HT. Quảng Khâm

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

NHƯ NHƯ-(23) CHƠN THẬT TU HÀNH CHỚ BUÔNG LUNG

          Kim Sơn Thánh Tự, trước kia được gọi là Phật Giáo Giảng Ðường và tọa lạc tại tầng lầu thứ tư trong một chung cư thuộc khu phố Chinatown ở San Francisco, vốn do Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới kiến lập. Khóa tu học mùa hè đầu tiên được tổ chức tại đây năm 1968. Bấy giờ có rất nhiều người từ Seattle đến tham gia khóa tu học 96 ngày ấy. Chương trình học tập rất bận rộn, hằng ngày không có giờ nghỉ; chỉ có ngày Thứ Bảy là được nghỉ buổi chiều để giặt giũ, hoặc giải quyết những công việc riêng tư.
         Trong khóa tu học ấy, tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm và dự trù có thể giảng xong trước ngày mãn khóa. Ban đầu thì mỗi ngày thuyết giảng một lần, nhưng được một thời gian thì tôi nhận thấy là sẽ không kịp thời hạn nên tăng lên thành mỗi ngày giảng hai lần. Dần dần lại ngại rằng không thể giảng xong nên tôi phải tăng thành ba lần mỗi ngày; và cuối cùng thì thành ra mỗi ngày giảng bốn lần. Cứ như thế mà trong khóa hè ấy cũng giảng xong bộ Kinh Lăng Nghiêm, đem công đức viên mãn hồi hướng cho tất cả chúng sinh.
Sau khi giảng xong Kinh Lăng Nghiêm, có năm thanh niên nam nữ người Mỹ xin xuất gia. Ðó là những người Mỹ đầu tiên xuất gia và thọ Cụ-túc Giới-ba vị Tỳ-kheo và hai vị Tỳ-kheo-ni.
         Về sau, mỗi năm đều có khóa tu học mùa hè. Rất nhiều người tới học hỏi Phật-pháp và cũng có nhiều người xuất gia thành Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Tuy nhân số không nhiều, song đối với Chùa Kim Sơn vốn chú trọng phẩm chất chứ không chú trọng số lượng, chỉ cần chân thật tu hành và nghiên cứu Phật-pháp, thì một người cũng không phải là ít, hà huống là nào phải chỉ có một hoặc hai người thôi đâu?
         Hằng tháng, Chùa Kim Sơn phát hành một tập nguyệt san song ngữ Anh-Hoa-Vajra Bodhi Sea (Kim Cang Bồ Ðề Hải). Tập nguyệt san này chuyên đăng yếu nghĩa Phật-pháp để cho người Tây phương có thể am tường nguồn gốc của đạo Phật đồng thời có được sự nhận thức đúng đắn về Phật-pháp, để họ không còn cho rằng Phật-giáo là mê tín, sùng bái ngẫu-tượng, tiêu cực, bi quan, hoặc là "ký sinh trùng" của xã hội nữa. Tập nguyệt san này cho người ta biết Phật-giáo là tự do, bình đẳng, mà mục tiêu là đề xướng thế giới hòa bình và hết thảy mọi người đều là đệ tử của Phật, tuyệt đối không có sự giới hạn về chủng tộc, quốc tịch hay địa giới. Phật-giáo từ khi có lịch sử đến nay chưa hề gây ra chiến tranh, bởi vì giới-điều đầu tiên trong Giới-luật nhà Phật là Không Sát Sinh-chẳng những không giết người mà ngay cả động vật cũng không sát hại, trái lại còn phóng sinh và bảo vệ mọi loài động vật-nhờ vậy mà không hề gây ra chiến tranh!
        Chùa Kim Sơn cũng như là nơi "đãi cát tìm vàng"-nếu quý vị là "vàng" thì khi tới Chùa Kim Sơn quý vị sẽ cảm thấy nơi đây như là nhà của quý vị vậy. Ở đây, mọi người không nói chuyện nên rất thuận tiện để đọc sách, ngày ngày nghiên cứu Phật-pháp, chẳng bị ai quấy rầy-thật là một môi trường lý tưởng! Người Mỹ tuy nhiều, song có được bao nhiêu người chân chính phát tâm tới đây để nghiên cứu Phật-pháp, nghe Kinh học Pháp? Do đó, việc thành Phật là tùy thuộc ở cá nhân chứ không phải ở tập thể. Trên thế giới, cái gì ít thì đều quý cả-số người nghiên cứu Phật-pháp ở Chùa Kim Sơn tuy không nhiều, song đối với thế giới này thì như thế là vô cùng quý báu! Trong tương lai, khi quý vị đã thông suốt Phật-pháp rồi, quý vị có thể đi khắp nơi hoằng dương Phật-pháp, lợi ích chúng sinh, khiến mọi chúng sinh sớm thành Phật đạo-đó là điều tôi kỳ vọng ở quý vị!
        Trong khóa tu học mùa hè kỳ này, mọi người cần phải biết quý trọng thời giờ, đừng để lãng phí. Có câu rằng:
"Một tấc thời một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian."
        Cho nên, thời giờ là quý giá nhất, quan trọng nhất. Quý vị đến tham gia khóa tu học mùa hè năm nay hãy nỗ lực học hỏi Phật-pháp, chớ nên để thời giờ trôi qua một cách vô ích-quý vị nhất định phải học cho được đôi chút đạo lý chân chính.
Có một việc mà tôi muốn nói với quý vị. Thật sự thì tôi không muốn nói ra, song bây giờ thì tôi không thể không nói. Việc gì ư? Là người xuất gia thì nhất định phải biết tự trọng, không nên coi mình quá thấp hèn, nhưng cũng không được cống cao ngã mạn; lúc nào cũng phản tỉnh và tự kiểm thảo-hễ có làm lỗi lầm gì thì sửa đổi ngay, nếu không có lỗi gì thì phải tiến tu; tuyệt đối không được cẩu thả hoặc phóng dật, buông lung.
Một khi các vị đã là đệ tử xuất gia của tôi, hễ tôi thấy lỗi lầm gì của các vị thì tôi nhất định sẽ nói ra để các vị biết mà sửa đổi. Nếu tôi không nói ra, thì tôi thật có lỗi với các vị. Sau khi tôi đã nói ra những điều mình thấy rồi, thì các vị nghe hay không, sửa đổi hay chăng, đó là chuyện của các vị. Tôi chỉ làm tròn nhiệm vụ người Thầy, không hổ thẹn với lương tâm là đủ. Các vị chớ nên để đến khi đọa địa ngục rồi oán trách Sư-phụ: "Ôi! Tại sao lúc đầu Sư-phụ không dạy tôi nghiêm hơn một chút? Nếu quả Thầy dạy tôi kỹ hơn, nghiêm khắc hơn, thì làm sao tôi bị đọa địa ngục được chứ?"
        Nay tôi đã nói ra điều mà tôi muốn nói rồi, các vị đã xuất gia phải ghi nhớ: Các vị không được quấy rầy hoặc can thiệp vào sự tự do của kẻ khác, và cũng đừng làm ảnh hưởng đến hành động của họ. Bản thân mình không muốn tu hành thì thôi, đừng làm trở ngại sự tu hành của người khác-mình không trì Giới, nhưng đừng cản trở người khác trì Giới; mình không tu bồi đức hạnh, nhưng chớ chướng ngại sự trau giồi đức hạnh của người khác! Người nào có tư tưởng và hành vi như trên thì nhất định phải sửa chữa, "đổi ác thành thiện" ngay. Người xuất gia thì từng giây từng phút, lúc nào cũng phải tự kiểm soát chính mình-mỗi lời nói, mỗi việc làm đều phải luôn luôn đúng theo Giới-luật. Các vị phải nghiêm chỉnh, không được phóng túng, vô kỷ luật; không được muốn gì thì làm nấy. Có câu:
Vô qui củ, bất năng thành phương viên.
(Không có khuôn phép thì chẳng thể thành vuông tròn.)
       Do đó khi Ðức Phật sắp nhập Niết-bàn, Ngài dạy Tôn-giả A-Nan: "Hãy lấy Giới-luật làm Thầy!" Ðó chính là điều mà người xuất gia phải ghi lòng tạc dạ.
Khi ăn cơm, chúng ta phải nhớ Tam Niệm, Ngũ Quán; bởi:
Thí chủ nhất lạp mễ,
Trọng như Tu Di sơn,
Thực liễu bất tu hành,
Bì mao đái giác hoàn.
(Một hạt gạo thí chủ,
Nặng bằng núi Tu Di,
Ăn rồi chẳng tu trì,
Mang lông đội sừng trả.)
        Thật đáng sợ và nguy hiểm như vậy đấy các vị ạ! Ðó gọi là "dưới tấm áo cà sa vuột mất thân người" vậy! Cho nên, người xuất gia dù ở bất cứ nơi đâu cũng đều phải nghiêm trì, giữ vững Giới-luật-khi chưa dứt được sinh tử, chưa đoạn được tâm dâm dục, thì không lúc nào được biếng nhác, buông lung, phóng túng. Ðức Phổ Hiền Bồ-tát dạy rằng:
"Một ngày đã qua, mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì?
Ðại chúng!
Hãy siêng tinh tấn, như đầu bị đốt,
Chỉ nhớ vô thường, chớ mặc buông lung!"
 
         Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng giây từng phút; hãy nhớ rằng:
"Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian."
       Thời giờ quý báu như thế nên chúng ta không được lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành tựu. Phàm là người dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi, không có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián đoạn sự tu hành. Về điểm này, tôi hy vọng mọi người hãy chú ý.
        Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì tôi cảm thấy vô cùng đau xót; bởi như thế chẳng phải là họ đã không thực hành các thệ nguyện mà họ đã lập lúc ban đầu, khi họ mới xuất gia tu hành hay sao? Những kẻ xuất gia mà "tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo" thì có xứng đáng là Tăng Bảo hay không? Mong rằng các vị đều biết tự trọng!
 HT Tuyên Hóa

NHƯ NHƯ-(22) NGƯỜI TU HÀNH KHÔNG ĐƯỢC NÓI DỐI

         Tại Thiền đường, chúng ta phải tuân theo quy củ của Thiền đường, không thể lập dị để hành động theo ý riêng của mình. Phải nhớ rằng Thiền đường là nơi đào tạo thánh nhân, nên không thể phá hoại Ðạo tràng, làm mất cơ hội khai ngộ của người khác. Về điểm này những người tham dự thiền thất phải đặc biệt chú ý, phải giữ giới luật một cách nghiêm cẩn, chớ không thể coi nhẹ.
         Dự thiền thất cũng là một cơ duyên khó gặp, ngàn vạn lần không thể bỏ phí. Nay chúng ta đến đây tham thiền cùng với nhau, đó là do những căn lành từ các kiếp trước tạo nên, mới dẫn đến cơ duyên của ngày hôm nay. Người dụng công tu Ðạo, gặp được cơ may này phải nắm vững thời cơ khai ngộ, không để lãng phí thời gian, dù một giây một phút. Chẳng nên do nhất thời vui thú mà tìm cách an thân trong sự lười biếng, bởi như vậy sẽ uổng mất cơ hội được khai ngộ và còn có thể bị đọa vào ba đường ác. Lúc ấy có hối cũng không kịp. Vì lẽ đó tôi có hai câu như sau:
Mạc đãi khổ thời phương học Ðạo
Tam đồ đô thị lãn nọa nhân
         Hai câu này có nghĩa là đừng chờ tới khi gặp cảnh khổ mới tìm đường học Ðạo. Chúng sanh trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) đều là kẻ lười biếng.
Như vậy, thiền giả phải dụng công từng giờ từng khắc, lúc nào cũng tinh tấn. Thoại đầu phải luôn luôn ở trong tâm, đi cũng tham, ngồi cũng tham, tham tới tham lui, tham cho thật thấu đáo thì bổn lai diện mục sẽ hiển bày. Tại sao? Bởi thoại đầu có thể phá vọng tưởng. Phải tham cho tới trạng thái ở trên thì không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa không biết có người, như vậy thì còn lúc nào có vọng tưởng nữa? Phải nên hiểu rằng vọng tưởng chính là vọng ngữ, tức là chúng ta không giữ năm giới căn bản, vì tranh đua nên ta nói dối, vì tham nên nói dối, vì cầu nên nói dối, vì ích kỷ nên nói dối, vì tự lợi nên nói dối. Nói dối để lừa bịp người, làm việc lỗi lầm mà không tự nhận, còn tìm lời biện bác cho mình, nếu có tư tưởng và hành vi như vậy, làm sao có thể tu Ðạo được?
Tại sao chúng ta dụng công mà không thấy tiến bộ? Chính vì chúng ta đã dối trá quá nhiều. Một câu dối trá phát sanh ra cả trăm thứ vọng tưởng. Khi ấy, ngồi nhưng ngồi không yên chỗ, đứng mà đứng không ổn, đó là bệnh trạo cử, không biết cư xử ra sao, tiến hay thoái? Cái nào là đúng? Cái nào là sai? Không sao tìm thấy an ổn, cái đó hoàn toàn nghịch với Pháp.
          Kẻ tu hành chân chánh, ở đâu cũng theo đúng quy củ, lúc nào cũng tinh tấn, tuyệt đối không nói lời dối trá, không phải bạ thứ gì theo thứ đó. Mong rằng chúng ta không bắt chước những người dối trá, cũng không theo gót những ai không tuân thủ phép tắc, bởi theo họ không những chẳng có lợi ích gì mà còn có hại nữa. Ðiều này chúng ta nên cẩn thận, nên chú ý, kẻo có thể bị truyền nhiễm rồi mang họa lớn.
Người tu hành chân chánh không sợ khổ, không ngại khó, từng giờ từng phút nghiêm cẩn tu hành, không để cho ngoại cảnh lay chuyển.
         Hãy Tham! Tham! Tham! Tham cho đến nước cạn đá hiện, thấy rõ bản mặt gốc gác.
HT Tuyên Hóa

NHƯ NHƯ-(21) NGƯỜI TU HÀNH PHẢI CHỊU KHỔ

           Có câu nói rằng: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu phước". Chúng ta tu Ðạo phải tu khổ hạnh là vì lẽ gì? Mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa vì chúng ta muốn hết khổ. Khổ mà hết thì sẽ có vui.
Nói về phước thì có loại nên hưởng và có loại không nên hưởng. Phước nên hưởng là phước do tay ta tạo tác ra, như có nhà đẹp, mặc quần áo đẹp, ăn thứ ngon, đi xe hơi tốt.Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ rằng sau khi hưởng thọ hết những thứ đó thì phước cũng tiêu luôn, và trong trương mục của ngân hàng phước báo thì ngạch số tồn khoản cũng không còn.
           Loại phước không nên hưởng là loại không do chính ta tạo dựng. Chúng đến với ta do mánh lới, như tiền của trộm cắp của người khác chẳng hạn. Chúng ta tiêu xài thứ đó một cách trái phép, tất sẽ bị pháp luật trừng trị. Vậy là ta đã thiếu nợ vì rút tiền quá lạm tại trương mục của ngân hàng phước báo.
         Thọ hưởng phước thì khi hưởng hết, phước sẽ không còn, huống chi lại cố tình hưởng những loại phước không nên hưởng. Như vậy, không những tiêu mất phước mà lại còn bị vỡ nợ. Vì lẽ đó mà phước chẳng thể hưởng hết, hưởng hết thì hết phước; khổ có thể chịu hết, chịu hết thì hết khổ. Làm người phải ghi nhớ điều này. Gặp hoàn cảnh gian nan khốn khổ, ta vui lòng tiếp nhận nghịch cảnh. Vậy là không có sự oán hận, ta không mang tâm bất mãn.
          Ðối với kẻ đã từng nghiên cứu Phật Pháp, tư tưởng và hành động của họ khác với người thế tục. Một đàng thì thuận theo giòng sanh tử và tạo nghiệp, còn người tu hành thì đi ngược giòng sanh tử và làm tiêu nghiệp. Trong mọi cảnh ngộ, những người này vẫn giữ tâm an nhiên, nên không cảm thấy khổ. Có câu nói: "Có nếm được cái khổ cùng cực, mới thành bậc thượng nhân". Thật là một câu chí lý.
          Nay tôi kể một công án để quý vị tham khảo. Vị vua cuối cùng đời nhà Minh là vua Sùng Trinh. Là một vị quân vương, ông có đủ trí huệ, nhưng phước báo dành cho ngôi vị này lại không có. Bởi cớ gì? Bởi lý do gặp khổ nạn mà không lãnh thọ cho đến khi hết khổ. Nguyên kiếp trước ông là một Sa-di, nhưng lại chết trước khi thọ giới Cụ túc, thành thử thân phận ông vẫn là tiểu Sa-di. Trong thời gian làm Sa-di, ông phải nhận hết những công việc nặng nhọc như gánh nước, bổ củi. Ông ráng chịu đựng, nén sự oán giận và ngày ngày khổ công trong công tác hộ trì Ðạo tràng. Một hôm, ông leo lên nóc nhà để sửa mái, nhưng chẳng may trật chân rớt xuống đất chết. Các bạn tu vội báo cho Phương trượng hay. Hòa Thượng viện chủ vốn biết rõ nghiệp quả của vị tiểu Sa-di này, muốn tìm cách giúp cho đệ tử lãnh thọ cho hết khổ nạn, nên đối trước các chúng tuyên bố rằng: "Tiểu Sa-di này làm việc thiếu cẩn thận, sẩy chân ngã chết, làm thiệt hại cho Ðạo tràng. Y đã phạm vào tội xâm tổn thường trú, đáng bị trừng phạt. Các ngươi hãy buộc thi thể của nó vào đoàn ngựa, bắt ngựa kéo đi cho đến khi tan xác. Khỏi cần phải dùng quan tài mai táng nữa". Các bạn tu nghe Phương trượng nói xong, thấy không đang tâm, nghĩ tới tình bạn tu mà động lòng trắc ẩn. Họ không nghe lệnh của Phương trượng rồi bàn bạc với nhau: "Chúng ta là sư huynh sư đệ, cùng tu chung một Ðạo tràng, lý nào để cho y bị ngựa kéo thây như vậy, chúng ta phải chôn cất mới phải". Bàn xong, tất cả chung tiền mua quan tài, rồi đem chôn xác trong núi.
        Bởi đã khổ công làm việc chùa, tiểu Sa-di đã từng tích lũy công đức, nên kiếp sau được làm vua, tức vua Sùng Trinh. Có điều, ông chỉ tại vị trong thời gian 16 năm, lại gặp lúc thiên hạ đại loạn, trong nước thì Lý Tự Thành làm phản, bên ngoài thì nhà Thanh mang quân xâm lấn. Trong bao năm, ông chưa từng được hưởng một ngày an ổn, liên miên bị bức bách ưu phiền. Chính vì lòng tốt của các vị sư huynh sư đệ của ông đã làm hại ông, không để cho ông thọ lãnh cho hết khổ nạn. Nếu như các bạn đó sớm nghe lời Phương trượng, dùng ngựa kéo thây thì nạn khổ của ông đã hết và ngày sau đâu còn xẩy ra cảnh Sùng Trinh tự ải ở Môi Sơn, vì nước mà tử vong
HT Tuyên Hóa

NHƯ NHƯ-(20) THAM THOẠI ĐẦU

        "Tham" nghĩa là tìm-tìm xem ai là kẻ niệm Phật.
        "Tham thoại đầu" tức là nghiên cứu câu "Ai là người niệm Phật? Kẻ niệm Phật là ai?" Có câu:
Ðại nghi, đại ngộ;
Tiểu nghi, tiểu ngộ;
Bất nghi, bất ngộ.
(Nghi lớn, ngộ lớn;
Nghi nhỏ, ngộ nhỏ;
Không nghi, không ngộ.)
         Khi tham thấu triệt câu thoại đầu "Ai là kẻ niệm Phật?" rồi, thì sự tham Thiền ấy chính là thanh Kim-cang-vương Bảo-kiếm chặt đứt hết mọi dục niệm, chỉ còn một niệm tham cứu câu thoại đầu mà thôi. Lúc mọi ý niệm đều ngừng bặt, bấy giờ, Ðạo-tâm sẽ bừng dậy.
         Trước khi đả Thiền-thất thường có đả Phật-thất. Phật-thất xong mới đả Thiền-thất thì hiệu quả mới tốt đẹp. Trước niệm Phật, sau mới tham cứu thoại đầu "Ai là kẻ niệm Phật?"
"Tham" có nghĩa là tìm-tìm xem ai là kẻ niệm Phật
         Tìm cái "Ai" này có thể mất đến cả đại kiếp. Khi quý vị thấy những người tu hành lão luyện ngồi Thiền chẳng động đậy, chính là họ đang tìm cái "Ai" này vậy! Bởi vì chuyên tâm tham cứu cái "Ai" này nên mọi vọng tưởng đều ngưng bặt, thoát nhiên khai ngộ. Lúc ấy, trong bóng tối âm u bỗng xuất hiện ánh hào quang sáng chói, chuyện gì quý vị cũng thấy rõ cả. Rằng:
Mê thời thiên quyển thiểu,
Ngộ thời nhất tự đa.
(Lúc mê, ngàn sách còn ít,
Ngộ rồi, một chữ cũng dư.)
          Ðó là đạo lý của việc tham cứu câu "Ai là kẻ niệm Phật?" Do đó, hễ người nào không khởi vọng tưởng thì người ấy có công phu. Người luôn khởi vọng tưởng thì bất cứ công phu gì cũng không thành cả. Ðó là điểm cốt tủy của việc tham Thiền.
Công phu tham Thiền cốt ở sự chuyên nhất tham cứu-đi cũng tham, ngồi cũng tham, đứng cũng tham, nằm cũng tham. Nói tóm lại, lúc nào cũng phải tham Thiền, chớ bỏ qua cơ hội tham Thiền. Vì thế, lúc đả Thiền-thất chúng ta không lạy Phật, không tụng Kinh, không lên chánh-điện, không cúng quá-đường. Hễ tới giờ thì ăn; ăn xong lập tức tới Thiền-đường tiếp tục tham Thiền. Lúc cần đi nhà vệ sinh thì đi, xong rồi phải tức khắc trở lại Thiền-đường để tiếp tục tham Thiền. Ðừng lãng phí một phút một giây, bởi vì biết đâu chính trong một phút một giây ấy quý vị có thể khai ngộ thì sao? Do đó, hãy tranh thủ từng giây, từng phút một!
         Có câu: "Ðừng rời cái này!" Không rời cái gì? Tức là không rời câu thoại đầu "Ai là kẻ niệm Phật?" Không rời xa câu này, nên đó chính là thanh gươm trí huệ cắt đứt thất tình, lục dục. Một khi thói hư tật xấu trừ sạch thì bổn tánh sẽ hiện tiền. Khi bổn tánh hiện tiền thì Ðạo-quả Giác-ngộ sẽ thành tựu.
         Trong thời gian tham Thiền, quý vị phải đối diện với thực tế, khắc phục mọi hoàn cảnh, giữ chặt tông-chỉ. Phải nhớ rằng khổ đau là khởi đầu của an lạc. Tôi thường nói với quý vị là:
"Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì mất phước!"
Cổ nhân có dạy:
         Theo sau chuyện hung xấu thường có điềm lành tới; bên cạnh chuyện yên ổn có thể sẽ có chuyện không may. Pháp thế gian thì luôn ở thế đối đãi như vậy. Từ bao kiếp lâu xa đến nay không biết chúng ta đã tạo bao nhiêu ác nghiệp, thế nên giờ đây chúng ta phải chịu quả báo. Nếu quý vị biết nỗ lực dụng công, dũng mãnh tinh tấn, trả sạch hết nghiệp thì sẽ thành tựu Ðạo-quả.
Quý vị hãy chú ý! Bất luận là cảnh giới thuận (theo lòng mình) hay cảnh giới nghịch (với ý mình) thì quý vị cũng hãy nhẫn chịu-nhẫn chịu không nổi cũng phải ráng nhẫn chịu! Tu Ðạo chính là tu nhẫn nhịn; có câu:
"Nhẫn là bảo bối vô giá."
         Nếu quý vị có thể nhẫn nhịn, chịu đựng mọi chuyện, thì sẽ có được sự an lạc chân chánh. Cũng như kẻ luyện võ mà chưa đủ kinh nghiệm-lúc phải vật lộn thì quên bẵng tất cả chiêu số, đến khi đánh đấm xong mới nhớ ra các thế võ để đánh thì đã quá muộn! Tham Thiền cũng vậy-khi cảnh giới đến thì quý vị phải nhẫn chịu, phải chịu thiệt thòi, phải cắn răng chịu đựng; khivượt qua khó khăn rồi quý vị mới đạt được sự tự tại.
         Khi tham Thiền, quý vị phải sáng tham như vậy, chiều cũng tham như vậy. Sáng tu Thiền, chiều cũng tu Thiền. Tu lâu ngày thì sẽ thành tựu. Nhẫn nại được, tức là dù đau lưng cũng chẳng màng, đau gối cũng mặc kệ, cứ nhất tâm nhất niệm tham câu "Ai là kẻ niệm Phật?" Nếu lúc nào cũng được như vậy thì quý vị sẽ chẳng khởi vọng tưởng, có thể nhiếp thọ, thâu phục thân tâm, khiến tâm trí thanh tịnh tới mức một vọng niệm cũng không dấy khởi. Quý vị hãy giữ cho tâm đừng rời câu thoại đầu "Ai là kẻ niệm Phật?"; lúc nào cũng đề khởi, lúc nào cũng chẳng quên-đó chính là mục tiêu của sự dụng công.
         Việc tham thoại đầu thì chỉ có một vọng tưởng, còn tạp niệm thì có vô số vọng tưởng. Do đó, chúng ta dùng phương pháp "dĩ độc công độc"-lấy một vọng tưởng "tham cứu thoại đầu" để khống chế tất cả các vọng tưởng khác-dần dần, từng vọng tưởng một sẽ bị tiêu diệt, không còn tái khởi. Lúc ấy, bất luận là cảnh giới gì đến quý vị cũng không còn bị mê hoặc; quý vị biết biện biệt rõ ràng thì không thể nào bị "tẩu hỏa nhập ma." Người xưa nói:
"Ninh khả thiên sanh bất ngộ,
Bất khả nhất nhật trước ma."
(Thà rằng ngàn đời không ngộ,
Chẳng để một ngày vướng ma.)
         Khi tu Thiền-định, quý vị cần phải cẩn thận, dè dặt, chớ có cực đoan. Phải chánh đại quang minh, đừng để bọn ma quỷ có cơ hội hại quý vị. Khi quý vị có tạp niệm tức là quý vị mở cửa cho ma quỷ lọt vào! Do đó, tham thoại đầu chính là Pháp-bảo "đuổi ma"!
(HT Tuyên Hóa -Thiền-thất 12/1280)

"Họa là chỗ phước dựa vào,
Phước là nơi họa cậy nương."
. Là quỷ ư? Vậy thì thuộc loại quỷ nào? Là người ư? Người nào vậy? Là mình ư? Mình chết rồi thì còn niệm được chăng? Bỏ vô quan tài rồi thì chẳng ai còn niệm Phật nữa cả! Hãy tìm xem, rốt ráo thì ai niệm Phật? Và niệm ai chớ? Hãy tìm xem, kẻ niệm Phật là ai? Ai đang niệm Phật? Quý vị tìm không ra ư? Dù quý vị vĩnh viễn tìm kiếm, cũng không tìm ra được! Nếu quý vị tìm ra được chữ "Ai" này, thì vọng tưởng gì cũng hết sạch. Vì sao quý vị vẫn còn vọng tưởng? Vì quý vị vẫn chưa tìm ra được cái "Ai"!

NHƯ NHƯ-(19)-THAM THIỀN LÀ PHƯƠNG PHÁP KHAI NGỘ

          Phật-giáo sau khi được truyền sang Trung Quốc thì phân làm năm tông phái là Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật. Thiền là Thiền-định; Giáo là Giáo-lý; Luật là Giới-luật; Tịnh là Tịnh-độ; Mật là trì Chú. Lúc này là lúc đả Thiền-thất, nên chỉ giảng về lý Thiền, còn bốn tông phái kia thì tạm thời không đề cập đến.
          Thiền-na, dịch là "Tư Duy Tu," nghĩa là thường tư duy, suy gẫm về một việc. Việc gì? Tức là thoại đầu. Xem xét "Ai Niệm Phật?" gọi là tham Thiền. Kỳ thật, tham thoại đầu cũng chỉ là vọng tưởng; bất quá chúng ta dùng vọng tưởng để chế phục vọng tưởng, "dĩ độc công độc," tức là lấy một vọng tưởng để tiêu diệt nhiều vọng tưởng khác. Công phu tham thoại đầu đòi hỏi phải trải qua thời gian dài thì mới thành tựu, do đó nói: "Tham cứu lâu mới có Thiền."
          "Tham" cũng giống như lấy cái khoan đục vào gỗ vậy. Chưa đục xuyên thủng thì chưa ngừng, chẳng thể nửa đường bỏ phế; bởi nếu thế thì công phu từ trước hoàn toàn vất bỏ. Tham Thiền, quan trọng nhất là nhẫn nại được. Khi nhẫn nại đến chỗ tột đỉnh thì có thể chẳng nảy sinh một vọng niệm nào cả. Khi "một niệm chẳng sinh" thì có thể khai ngộ. Có câu:
"Ðầu sào trăm thước, dấn thêm một bước."
            Nghĩa là khi quý vị ở đầu ngọn sào dài trăm thước, quý vị vẫn tiếp tục bước thêm một bước nữa. Lúc ấy, "mười phương thế giới đều hiện toàn thể." Song, pháp môn này mỗi niệm lúc nào cũng tu trì thì mới có hiệu quả; không thể lười biếng, không thể buông lung. Trong Chứng Ðạo Ca có nói rằng:
Ðốn giác liễu Như Lai Thiền
Lục Ðộ Vạn Hạnh thể trung viên
Mộng lý minh minh hữu Lục Thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.
Nghĩa là:
"Ðốn" tức là lập tức giác ngộ một đạo lý. Rằng:
Lý khả đốn ngộ, sự tu tiệm tu.
(Lý có thể hiểu ngay lập tức, song sự thì phải từ từ tu.)
           Về "sự" thì chúng ta cần phải tu từng bước một, còn về "lý" thì cần phải hiểu rõ ngay tức khắc. Khi đốn-ngộ thì chúng ta biết giếng ở đâu để đi lấy nước; còn lúc chưa đốn-ngộ thì chúng ta chỉ nghe tiếng dây ròng rọc kéo nước mà không biết giếng ở đâu. Ví dụ này thuyết minh Phật-tánh từ đâu lại. Làm sao để chứng đắc Phật-tánh? Chứng Phật-tánh không có pháp gì khác, chỉ một cách là tham Thiền, ngồi Thiền.
           Lục Ðộ là pháp môn Bồ-tát tu hành. Bố thí thì "độ" tánh bỏn xẻn và tham lam. Trì giới thì "độ" việc hủy phạm. Nhẫn nhục thì "độ" tánh sân hận. Tinh tấn thì "độ" thói giải đãi, biếng nhác. Thiền định thì "độ" sự tán loạn. Trí huệ thì "độ" tâm ngu si. Khi Lục Ðộ tu đến viên mãn thì mới khai ngộ đặng.
           Chúng ta lúc nào cũng ở trong mộng. Rằng:
Nhân sinh nhất trường mộng,
Nhân tử mộng nhất trường.
Mộng lýthân vinh quý,
Mộng tỉnh tại cùng hương,
Triều triều thị tác mộng,
Bất giác mộng hoàng lương,
Mộng trung nhược bất giác,
Uổng tác mộng nhất trường.
Nghĩa là:
          Lúc mộng, chúng ta thấy rõ ràng có Lục-thú (sáu nẻo: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục); đến lúc giác ngộ mới thấy tam thiên đại thiên thế giới đều chẳng có. Vì sao? Vì không còn chấp trước. Chẳng còn chấp trước thì đem vạn vật "phản bổn hoàn nguyên"; như thế làm sao còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đặng? Mọi thứ đều chẳng còn! Có người nghe rằng bốn tướng đều hết thì chẳng dám tu hành, vì ngộ nhận rằng: "Tu đến cực điểm thì người ta chẳng hiện hữu nữa, chúng sinh cũng hết sạch, thọ giả cũng không còn, vậy thì sao đây? Lúc ấy công việc làm cũng hết luôn, e rằng tôi sẽ thất nghiệp mất!"
Quý vị nhất định cần có việc làm sao? Vậy thì cứ tiếp tục điên đảo! Khi tu hành đến chỗ không còn bốn tướng, thì quý vị sẽ "quét sạch tất cả pháp, xa rời tất cả tướng," chứng đắc Thực-tướng của mọi sự. Rằng:
Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không.
(Một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.)
          Chẳng thể nói suông là mình hiểu đạo lý này, mà chúng ta bắt buộc phải chân chính chứng đắc cảnh giới "một pháp chẳng lập, mọi sự đều không." Lúc ấy sẽ chẳng còn gì là khổ, chỉ hưởng thọ sự an lạc.
          Người ta ở đời, nếu không chấp trước danh vọng thì cũng ôm chặt lợi lộc, không chấp trước tiền tài, thì lại mê đắm sắc đẹp, do đó không thể nhìn thủng (hiện tượng), chẳng thể buông bỏ (mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng, muốn buông bỏ, song lại chẳng đặng. Vì sao chẳng kham? Bởi vì trong tâm có "con quỷ" tinh tế và "con sâu" linh lợi tác quái, do đó rất nhiều việc mình để lỡ cơ hội, đối diện với Ðức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Ðức Quán Âm Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đi tìm kiếm khắp nơi. Ðó chính là bị điên đảo vọng tưởng chi phối vậy.
         Chữ "tham" trong tham Thiền có nghĩa là quán chiếu, quan sát. Quán chiếu cái gì? Quán chiếu Bát-nhã. Nghĩa là trong mọi ý niệm, mọi thời điểm, quý vị phải quan sát chính mình ở đây (tự tại), đừng quan sát kẻ khác (tha tại). Hãy quán sát xem mình có ở tại đây hay chăng-nếu mình ở đây thì có thể tham Thiền, dụng công tu hành; nếu mình chẳng ở đây, tức là mình khởi vọng tưởng lăng xăng, nghĩ ngợi vớ vẩn. Thân tuy ở trong Thiền-đường, nhưng tâm lại dong ruổi tận Nữu Ước hay Ý Ðại Lợi. Tới đâu cũng phan duyên, thành ra không tự tại nữa.
         Quán chiếu tự tại tức là Bồ-tát. Quán chiếu không tự tại tức là phàm phu. Quán chiếu tự tại là thiên đường. Quán chiếu không tự tại là địa ngục. Nếu chúng ta quán chiếu với sự tự tại, tâm không chạy ra ngoài, thì có thể "thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu." Lúc tham Thiền, thân ngồi tại Thiền-đường, tâm miên mật tham cứu liên tục, không gián đoạn, thì mới đúng là thực hành Bát-nhã thâm sâu, tìm được trí huệ. Khi đắc đại trí huệ thì mới tới được bờ bên kia, bờ giải thoát.
         Bí quyết tham Thiền là "triều dã tư, tịch dã tư" (ngày tham cứu, đêm cũng tham cứu). Tham cứu cái gì? Tham cứu "Niệm Phật là Ai?" Ngày nay tham cứu, ngày mai tham cứu. Ngày ngày tại Thiền-đường "thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu," song không phải chỉ một thời gian ngắn là có thể nếm được mùi vị Thiền ngay đâu. Quý vị phải trải qua thời gian dài lâu mới được. Khi có công phu "thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu" thì mới có thể "soi thấy năm Uẩn đều không."
          Năm Uẩn còn gọi là năm Ấm. "Uẩn" có nghĩa là tụ tập; "Ấm" có nghĩa là che đậy, bao phủ. Vì sao chúng ta không được tự tại, không đắc giải thoát? Bởi vì chúng ta bị năm Ấm che phủ! Năm Uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.
          1. Sắc-uẩn: Có chướng ngại thì gọi là sắc, có hình tướng cũng là sắc. Sắc-uẩn chẳng không thì thấy sắc sẽ bị sắc-trần mê hoặc, nghe âm thanh thì bị thanh-trần mê hoặc, ngửi mùi hương thì bị hương-trần mê hoặc, nếm mùi vị thì bị vị-trần mê hoặc, tiếp xúc với vật thì bị xúc-trần mê hoặc. Nếu khiến cho sắc-uẩn là không, thì bên trong không có tâm, bên ngoài không có hình tướng, xa gần không có vật thể. "Sắc" cũng có nghĩa là đủ thứ sắc đẹp, nhan sắc khiến mắt ta hỗn loạn, không nhận biết rõ ràng, mờ mịt giống như kẻ mù vậy. Trong Ðạo Ðức Kinh có nói:
Ngũ sắc linh nhân mục manh,
Ngũ âm linh nhân nhĩ lung,
Ngũ vị linh nhân khẩu sảng.
Nghĩa là:
           Những thứ ấy đều do bị sắc-uẩn mê hoặc. Nếu phá được sắc-uẩn rồi, thì núi sông, đất đai, thành quách, nhà cửa đều rỗng không cả, chẳng còn gì rắc rối nữa. Do đó, sắc-uẩn chưa không, thì chúng ta còn chấp trước ở sắc. Khi chấp trước ở sắc thì không thể trừ khử được kiến-hoặc (sự mê muội của cái thấy).
          Kiến-hoặc là do khi gặp cảnh thì khởi lòng tham ái. Cảnh giới tức là sắc. Khi đối trước cảnh giới nào cũng sinh lòng tham lam hay yêu thích, tức là có chấp trước. Kiến-hoặc có tám mươi tám phẩm; nếu chặt đứt hết được thì sẽ chứng Sơ-quả A-la-hán. Người tu Ðạo chúng ta, trước tiên cần phải đoạn tám mươi tám phẩm kiến-hoặc vốn tồn tại trong Tam-Giới, rồi sau đó mới đoạn trừ tám mươi mốt phẩm tư-hoặc ở Tam-Giới.
Tư-hoặc là do mê muội chân lý nên khởi phân biệt, tức là đối với tất cả đạo lý mình không nhận thức được rõ ràng. Khi đoạn trừ hết tám mươi mốt phẩm tư-hoặc thì sẽ chứng Tứ-quả A-la-hán.
          2. Thọ-uẩn. "Thọ" là lĩnh nạp lĩnh thọ, phát sinh cảm giác. Khi cảnh giới đến, chẳng cần suy nghĩ gì, liền tiếp thụ lĩnh nạp, phát ra cảm giác. Như ăn món gì, cảm giác thấy ngon, đó là "thọ." Mặc áo đẹp, cảm thấy vui, cũng là "thọ." Ở nhà tốt, cảm thấy thích, đó là "thọ." Ngồi xe tốt, có cảm giác êm ái, đó cũng là "thọ." Khi thân tiếp thọ bất kỳ thứ gì, cảm giác ra sao, đều gọi là "thọ."
         3. Tưởng-uẩn: tức là tư tưởng, ý niệm. Vì năm Căn tiếp xúc, lãnh thọ cảnh giới của năm Trần nên phát sinh ra đủ thứ vọng tưởng, đủ thứ ý niệm. Chúng thoắt sinh ra thoắt diệt mất, khởi lên tác dụng suy nghĩ đến sắc, đến thọ.
         4. Hành-uẩn. Hành có ý nghĩa thiên lưu, dời đổi, lúc tới lúc đi, lúc đi lúc tới, chẳng khi nào ngừng nghỉ, trôi mãi không dừng. Ðộng cơ làm ác làm thiện là ở trong tâm, song do vọng tưởng, suy tư chi phối và phản ảnh qua những hành vi, cử chỉ của thân khẩu ý (mọi hành vi ấy đều thuộc hành-uẩn).
         5. Thức-uẩn. Thức có ý nghĩa phân biệt; cảnh giới tới thì sinh tâm phân biệt. Ví dụ: Thấy sắc đẹp thì sinh lòng vui thích, nghe lời ác thì sinh lòng ghét bỏ, v.v...
Nếu phá thủng được năm Uẩn thì sẽ vượt qua mọi khổ ách, cũng chẳng còn tai ách gì cả. Vì sao chúng ta có tai ách? Bởi vì chúng ta chưa dẹp bỏ được hai thứ chấp trước là chấp ngã và chấp pháp (mọi sự mọi việc).
Trong bài Chứng Ðạo Ca của Ðại sư Huyền Giác có nói:
Ngũ Uẩn phù vân không khứ lai;
Tam Ðộc thủy bào hư xuất một.
Nghĩa là:
          Năm Uẩn xưa nay vốn không có tự tánh, hệt như đám mây trôi, thoắt nhiên có, thoắt nhiên mất. Khi không rõ thấu đạo lý này, chúng ta sẽ mãi bị năm Uẩn che lấp, không thể tự tại, không đặng giải thoát. Người tu Ðạo phải phá năm Uẩn. Như mây bay lại, mặc nó lại; nếu nó trôi đi, mặc nó đi. Không cần chú ý tới, không cần chấp trước nó. Ba thứ độc tham, sân, si thì giống như bọt nước, vốn không có thực thể. Chúng tự sinh ra rồi tự mất đi, nên đừng chấp trước vào chúng. Bài "Chứng Ðạo Ca" lại nói:
Chứng Thực-tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sinh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Nghĩa là:
          "Thực-tướng" tức là "vô tướng, vô sở bất tướng" (không có hình tướng gì, song không có gì chẳng phải là nó). Cũng có nghĩa là "tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng" (quét sạch tất cả mọi pháp mọi sự; rời bỏ mọi hình tướng, mọi quan niệm). Có thể nói là "phản bổn hoàn nguyên, chứng đắc tự tánh thanh tịnh." Tới được cảnh giới này thì cũng chẳng có người, chẳng có pháp. Nhân, pháp đều quên hết. Cũng không còn chấp người, hết luôn chấp pháp (mọi sự mọi việc). Ðó là chứng đắc lý và thể của Thực-tướng. Lúc ấy chỉ trong sát-na, có thể tất cả tội nghiệp đọa địa ngục Vô-gián đã tạo ra trong vô lượng kiếp về trước lập tức tiêu diệt hoàn toàn. Ðại sư Vĩnh Gia nói rằng: "Nếu tôi đem lời giả dối để gạt gẫm chúng sinh, tôi xin cam tâm tình nguyện xuống địa ngục rút lưỡi, chịu khổ trong vô số kiếp nhiều như cát bụi vậy."
          Lúc ở Thiền-đường, quý vị hãy chân thật tu hành. Giống như kéo tằm, quý vị phải nhẫn nại, từ từ kéo từng sợi tơ thì mới không bị rối. Chớ nên tự cho mình là thông minh, muốn tìm đường tắt, muốn dùng phương pháp khoa học để khai ngộ; đó chỉ là suy nghĩ vớ vẩn. Nếu khoa học có thể làm cho khai ngộ, thì các nhà khoa học gia đã không tự chui vào thế kẹt, họ đã sớm khai ngộ từ lâu rồi và chẳng ai có thể dự phần để khai ngộ với họ đâu! Chớ nên nghĩ ngợi mông lung mà phải thành thật, đúng phép mà tham cứu "Niệm Phật là Ai?" Lưng mỏi cũng phải chịu, chân đau cũng phải nhẫn; nhẫn nại mãi sẽ tới lúc quý vị khai ngộ. Rằng:
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa phác tỵ hương?
Nghĩa là:
          Quý vị hãy chú ý! Chớ quá thông minh rồi lại bị sự thông minh đánh lừa mình. Phải nhớ: Một phần nỗ lực tu hành là một phần công phu. Tu hành là chân thật công phu, không phải "khẩu đầu thiền" (thiền nói suông). Chỉ nói suông mà không thực hành, thì không ích lợi gì. "Thiền nói suông" chẳng những không giúp gì việc khai ngộ mà ngược lại còn chướng ngại là khác. Do đó nói: "Không nói, mới là Thiền."
Một niệm linh quang có thể triệt chiếu thiên địa, quý vị cùng mười phương ba đời chư Phật chẳng hề khác biệt. Vì sao chúng ta không thể chứng đắc Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông? Vì kẻ phàm phu chúng ta vọng tưởng quá nhiều, do đó trí huệ bị che khuất, chẳng có quang minh, thành ra vô minh. Cả ngày cứ khởi mê hoặc, tạo nghiệp, nên thọ nhận quả báo đau khổ trong vòng sinh tử.
          Tam Thân tức là Pháp-thân, Báo-thân, Ứng-thân (hoặc Hóa-thân).
Tứ Trí tức là Thành-sở-tác Trí, Diệu-quán-sát Trí, Bình-đẳng-tánh Trí, Ðại-viên-kính Trí.
Ngũ Nhãn tức là Nhục-nhãn, Thiên-nhãn, Pháp-nhãn, Huệ-nhãn, Phật-nhãn.
Lục Thông tức là Thiên-nhãn Thông, Thiên-nhĩ Thông, Tha tâm Thông, Túc-mạng Thông, Thần-túc Thông, Lậu-tận Thông.
         Khi quý vị không có vọng tưởng gì thì mới chứng đắc những cảnh giới này. Ðây chẳng phải là thứ triết lý, lý luận huyền diệu bí ẩn gì cả, chỉ là một thứ hiện tượng tự nhiên, từ chân thật công phu mà chứng đắc. Chẳng có chút gì kỳ lạ, rất là bình thường.
Từ vô thủy kiếp đến nay chúng ta bị vô minh che phủ, chẳng gặp được bậc Thiện-tri-thức dắt dẫn, không biết thế nào là minh tâm kiến tánh (minh ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh), không biết thế nào là phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng ta tu Thiền chính là để minh tâm kiến tánh, để phản bổn hoàn nguyên vậy. Nếu được giải thoát thì sẽ không còn quái ngại, ngăn trở, xa rời mọi điên đảo mộng tưởng, cuối cùng tới đặng Niết-bàn vậy.
HT Tuyên Hóa-Thiền thất 12/1980
Không qua một lần lạnh buốt xương,
Sao được hoa mai tỏa ngát hương?
Chứng Thực-tướng, không nhân, pháp,
Sát-na rũ sạch nghiệp A-tỳ.
Nếu đem lời dối, gạt chúng sinh,
Tự chịu cắt lưỡi hằng sa kiếp.
Năm Uẩn như mây trôi, chẳng đến đi,
Ba Ðộc như bọt nước, giả có, mất.
Năm sắc khiến mắt người mù,
Năm âm khiến tai người điếc,
Năm vị khiến miệng người đờ.
Người sống: một tràng mộng,
Người chết: mộng một tràng.
Trong mộng thân vinh quý,
Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ,
Ngày ngày cứ nằm mộng,
Chẳng biết mộng "kê vàng,"
Nằm mộng mà chẳng biết,
Uổng thay mộng một tràng.
Thiền Như Lai thoát hiểu rồi.
Lục Ðộ, vạn hạnh, thể tròn đầy.
Mộng thì rõ ràng có sáu nẻo,
Ngộ xong trống rỗng, chẳng đại thiên.

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

NHƯ NHƯ-(18)-(tiếp theo)

(Tiếp theo)
Nam mô Thập phương Vô Lượng Chư Đại Bồ tát,
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát,
Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát,
Nam mô Ðắc Ðại Thế Bồ tát,
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ tát,
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát,
Nam mô Bảo Chưởng Bồ tát,
Nam mô Dược Vương Bồ tát,
Nam mô Dược Thượng Bồ tát,
Nam mô Dũng Thí Bồ tát,
Nam mô Bảo Nguyệt Bồ tát,
Nam mô Nguyệt Quang Bồ tát,
Nam mô Mãn Nguyệt Bồ tát,
Nam mô Ðại Lực Bồ tát,
Nam mô Vô Lượng Lực Bồ tát,
Nam mô Việt Tam Giới Bồ tát,
Nam mô Bạt Ðà Bà La Bồ tát,
Nam mô Di Lặc Bồ tát,
Nam mô Bảo Tích Bồ tát,
Nam mô Ðạo Sư Bồ tát,
Nam mô Ðức Tạng Bồ tát.
Nam mô Nhạo Thuyết Bồ tát,
Nam mô Long Thụ Bồ tát,
Nam mô Bảo Ðàn Hoa Bồ tát,
Nam mô Thượng Hạnh Bồ tát,
Nam mô Vô Biên Hạnh Bồ tát,
Nam mô An Lập Hạnh Bồ tát,
Nam mô Tịnh Hạnh Bồ tát,
Nam mô Ðà La Ni Bồ tát,
Nam mô Kim Cương Na La Duyên Bồ tát,
Nam mô Thường Bất Khinh Bồ tát,
Nam mô Túc Vương Hoa Bồ tát,
Nam mô Hỉ Kiến Bồ tát,
Nam mô Diệu Âm Bồ tát,
Nam mô Ðức Cần Tinh Tiến Lực Bồ tát,
Nam mô Vô Tận Ý Bồ tát,
Nam mô Tịnh Tạng Bồ tát,
Nam mô Tịnh Nhãn Bồ tát,
Nam mô Phổ Hiền Bồ tát,
Nam mô Diệu Ðức Bồ tát,
Nam mô Từ Thị Bồ tát,
Nam mô Thiện Tư Nghị Bồ tát,
Nam mô Không Vô Bồ tát,
Nam mô Thần Thông Hoa Bồ tát,
Nam mô Quang Anh Bồ tát,
Nam mô Tuệ Thượng Bồ tát,
Nam mô Trí Tràng Bồ tát,
Nam mô Tịnh Căn Bồ tát,
Nam mô Nguyện Tuệ Bồ tát,
Nam mô Hương Tượng Bồ tát,
Nam mô Bảo Anh Bồ tát,
Nam mô Trung Trụ Bồ tát,
Nam mô Chế Hạnh Bồ tát,
Nam mô Giải Thoát Bồ tát,
Nam mô Pháp Tạng Bồ tát,
Nam mô Ðẳng Quan Bồ tát,
Nam mô Bất Ðẳng Quan Bồ tát,
Nam mô Vô Ðẳng Bất Ðẳng Quan Bồ tát,
Nam mô Ðịnh Tự Tại Vương Bồ tát,
Nam mô Pháp Tự Tại Vương Bồ tát,
Nam mô Pháp Tướng Bồ tát,
Nam mô Quang Tướng Bồ tát,
Nam mô Quang Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Ðại Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Bảo Tích Bồ tát,
Nam mô Biện Tích Bồ tát,
Nam mô Bảo Thủ Bồ tát,
Nam mô Bảo Chưởng Bồ tát,
Nam mô Bảo Ấn Thủ Bồ tát,
Nam mô Thường Cử Thủ Bồ tát,
Nam mô Thường Hạ Thủ Bồ tát,
Nam mô Thường Thảm Bồ tát,
Nam mô Hỷ Căn Bồ tát,
Nam mô Hỷ Vương Bồ tát,
Nam mô Biện Âm Bồ tát,
Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát,
Nam mô Nhiếp Bảo Cự Bồ tát,
Nam mô Bảo Dũng Bồ tát,
Nam mô Bảo Kiến Bồ tát,
Nam mô Ðế Võng Bồ tát,
Nam mô Minh Võng Bồ tát,
Nam mô Vô Duyên Quán Bồ tát,
Nam mô Tuệ Tích Bồ tát,
Nam mô Bảo Thắng Bồ tát,
Nam mô Thiên Vương Bồ tát,
Nam mô Hoại Ma Bồ tát,
Nam mô Ðiện Ðức Bồ tát,
Nam mô Tự Tại Vương Bồ tát,
Nam mô Công Ðức Tướng Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Sư Tử Hống Bồ tát,
Nam mô Lôi Âm Bồ tát,
Nam mô Sơn Tướng Kích Âm Bồ tát,
Nam mô Hương Tượng Bồ tát,
Nam mô Bạch Hương Tượng Bồ tát,
Nam mô Diệu Sinh Bồ tát,
Nam mô Hoa Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Phạm Võng Bồ tát,
Nam mô Bảo Trượng Bồ tát,
Nam mô Vô Thắng Bồ tát,
Nam mô Nghiêm Ðộ Bồ tát,
Nam mô Kim Kế Bồ tát,
Nam mô Châu Kế Bồ tát,
Nam mô Quang Nghiêm Ðồng Tử Bồ tát,
Nam mô Trì Thế Bồ tát,
Nam mô Thiện Ðức Bồ tát,
Nam mô Nan Thắng Bồ tát,
Nam mô Chiếu Minh Bồ tát,
Nam mô Hoa Quang Bồ tát,
Nam mô Bảo Ðàn Hoa Bồ tát,
Nam mô Tát Ðà Ba Luân Bồ tát,
Nam mô Ðàm Vô Kiệt Bồ tát,
Nam mô Pháp Tự Tại Bồ tát,
Nam mô Ðức Thủ Bồ tát,
Nam mô Bất Tuẫn Bồ tát,
Nam mô Ðức Ðính Bồ tát,
Nam mô Thiện Tú Bồ tát,
Nam mô Thiện Nhãn Bồ tát,
Nam mô Diệu Tý Bồ tát,
Nam mô Phất Sa Bồ tát,
Nam mô Sư Tử Bồ tát,
Nam mô Sư Tử Ý Bồ tát,
Nam mô Phù Giải Bồ tát,
Nam mô Na La Duyên Bồ tát,
Nam mô Thiện Ý Bồ tát,
Nam mô Hiện Kiến Bồ tát,
Nam mô Phổ Thủ Bồ tát,
Nam mô Ðiện Quang Bồ tát,
Nam mô Hỷ Kiến Bồ tát,
Nam mô Minh Tướng Bồ tát,
Nam mô Diệu Ý Bồ tát,
Nam mô Vô Tận Ý Bồ tát,
Nam mô Thâm Tuệ Bồ tát,
Nam mô Tịch Căn Bồ tát,
Nam mô Vô Ngại Bồ tát,
Nam mô Thượng Thiện Bồ tát,
Nam mô Phúc Ðiền Bồ tát,
Nam mô Hoa Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Ðức Tạng Bồ tát,
Nam mô Nguyệt Thượng Bồ tát,
Nam mô Bảo Ấn Thủ Bồ tát,
Nam mô Châu Ðính Vương Bồ tát,
Nam mô Lạc Thực Bồ tát,
Nam mô Tuệ Kiến Bồ tát,
Nam mô Ðăng Vương Bồ tát,
Nam mô Thâm Vương Bồ tát,
Nam mô Hoa Vương Bồ tát,
Nam mô Diệu Sắc Bồ tát,
Nam mô Thiện Vấn Bồ tát,
Nam mô Thiện Ðáp Bồ tát,
Nam mô Liễu Tướng Bồ tát,
Nam mô Ðịnh Tướng Bồ tát,
Nam mô Phát Hỷ Bồ tát,
Nam mô An Trụ Bồ tát,
Nam mô Phố Ma Bồ tát,
Nam mô Tuệ Thí Bồ tát,
Nam mô Cứu Thoát Bồ tát,
Nam mô Tuệ Ðăng Bồ tát,
Nam mô Dũng Thí Bồ tát,
Nam mô Trí Ðạo Bồ tát,
Nam mô Nguyện Tuệ Bồ tát,
Nam mô Tứ Nhiếp Bồ tát,
Nam mô Giáo Âm Bồ tát,
Nam mô Hải Diệu Bồ tát,
Nam mô Pháp Hỷ Bồ tát,
Nam mô Ðạo Phẩm Bồ tát,
Nam mô Tổng Trì Bồ tát,
Nam mô Từ Vương Bồ tát,
Nam mô Ðại Tự Tại Bồ tát,
Nam mô Phạm Âm Bồ tát,
Nam mô Diệu Sắc Bồ tát,
Nam mô Bảo Ðàn Lâm Bồ tát,
Nam mô Sư Tử Âm Bồ tát,
Nam mô Diệu Thanh Bồ tát,
Nam mô Diệu Sắc Hình Bồ tát,
Nam mô Chủng Chủng Trang Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Thích Chàng Bồ tát,
Nam mô Ðính Sinh Bồ tát,
Nam mô Minh Vương Bồ tát,
Nam mô Ðại Quang Bồ tát,
Nam mô Sa Ðề Bồ tát,
Nam mô Mật Tích Bồ tát,
Nam mô Hoa Diệm Bồ tát,
Nam mô Thượng Thủ Bồ tát,
Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Bồ tát,
Nam mô Thần Thông Bồ tát,
Nam mô Hải Ðức Bồ tát,
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát,
Nam mô Vô Y Vương Tự Tại Bồ tát,
Nam mô Ca Diếp Bồ tát,
Nam mô Vô Cấu Tạng Vương Bồ tát,
Nam mô Trì Nhất Thiết Bồ tát,
Nam mô Cao Quý Ðức Vương Bồ tát,
Nam mô Lưu Ly Quang Bồ tát,
Nam mô Vô Úy Bồ tát,
Nam mô Hải Vương Bồ tát,
Nam mô Sư Tử Hống Bồ tát,
Nam mô Ðà La Ni Bồ tát,
Nam mô Na La Duyên Bồ tát,
Nam mô Tín Tướng Bồ tát,
Nam mô Trì Ðịa Bồ tát,
Nam mô Quang Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Quang Minh Bồ tát,
Nam mô Ðại Biện Bồ tát,
Nam mô Từ Lực Bồ tát,
Nam mô Ðại Bi Bồ tát,
Nam mô Y Vương Bồ tát,
Nam mô Y Lực Bồ tát,
Nam mô Y Ðức Bồ tát,
Nam mô Phổ Tế Bồ tát,
Nam mô Phổ Nhiếp Bồ tát,
Nam mô Ðịnh Quang Bồ tát,
Nam mô Phổ Quang Bồ tát,
Nam mô Chân Quang Bồ tát,
Nam mô Câu Lâu Bồ tát,
Nam mô Thiên Quang Bồ tát,
Nam mô Bảo Vương Bồ tát,
Nam mô Di Quang Bồ tát,
Nam mô Giáo Ðạo Bồ tát,
Nam mô Ðạo Sư Bồ tát,
Nam mô Ðại Nhẫn Bồ tát,
Nam mô Hoa Vương Bồ tát,
Nam mô Hoa Tích Bồ tát,
Nam mô Tuệ Quang Bồ tát,
Nam mô Hải Tuệ Bồ tát,
Nam mô Kiên Ý Bồ tát,
Nam mô Thích Ma Nam Bồ tát,
Nam mô Kim Quang Minh Bồ tát,
Nam mô Kim Tạng Bồ tát,
Nam mô Thường Bi Bồ tát,
Nam mô Pháp Thượng Bồ tát,
Nam mô Tài Thủ Bồ tát,
Nam mô Sơn Quang Bồ tát,
Nam mô Sơn Tuệ Bồ tát,
Nam mô Ðại Minh Bồ tát,
Nam mô Tổng Trì Bồ tát,
Nam mô Sơn Vương Bồ tát,
Nam mô Ðăng Vương Bồ tát,
Nam mô Sơn Ðính Bồ tát,
Nam mô Sơn Chàng Bồ tát,
Nam mô Sơn Vương Bồ tát,
Nam mô Phục Ma Bồ tát,
Nam mô Lôi Âm Bồ tát,
Nam mô Vũ Vương Bồ tát,
Nam mô Lôi Vương Bồ tát,
Nam mô Bảo Luân Bồ tát,
Nam mô Bảo Anh Bồ tát,
Nam mô Bảo Thủ Bồ tát,
Nam mô Bảo Tạng Bồ tát,
Nam mô Bảo Minh Bồ tát,
Nam mô Bảo Ðịnh Bồ tát,
Nam mô Bảo Ấn Bồ tát,
Nam mô Bảo Tràng Bồ tát,
Nam mô Bảo Nghiêm Bồ tát,
Nam mô Bảo Thủy Bồ tát,
Nam mô Bảo Quang Bồ tát,
Nam mô Bảo Ðăng Bồ tát,
Nam mô Bảo Hiện Bồ tát,
Nam mô Bảo Tạo Bồ tát,
Nam mô Lạc Pháp Bồ tát,
Nam mô Tịnh Vương Bồ tát,
Nam mô Ðính Tướng Bồ tát,
Nam mô Kim Quang Bồ tát,
Nam mô Bảo Kế Bồ tát,
Nam mô Thiên Quang Bồ tát,
Nam mô Nguyên Hiểm Bồ tát,
Nam mô Chiếu Vị Bồ tát,
Nam mô Nguyệt Biện Bồ tát,
Nam mô Nguyệt Quang Bồ tát,
Nam mô Pháp Luân Bồ tát,
Nam mô Quang Tịnh Bồ tát,
Nam mô Thường Thí Bồ tát,
Nam mô Phổ Ðức Bồ tát,
Nam mô Phổ Minh Bồ tát,
Nam mô Thắng Tràng Bồ tát,
Nam mô Nhu Âm Bồ tát,
Nam mô Ðức Viêm Bồ tát,
Nam mô Tướng Quang Bồ tát,
Nam mô Hải Nguyệt Bồ tát,
Nam mô Hải Tạng Bồ tát,
Nam mô Thắng Nguyệt Bồ tát,
Nam mô Tịnh Tuệ Bồ tát,
Nam mô Siêu Quang Bồ tát,
Nam mô Nguyệt Ðức Bồ tát,
Nam mô Nhật Quang Bồ tát,
Nam mô Kim Cương Bồ tát,
Nam mô Viên Chàng Bồ tát,
Nam mô Tôn Ðức Bồ tát,
Nam mô Hải Minh Bồ tát,
Nam mô Hải Quang Bồ tát,
Nam mô Chiếu Cảnh Bồ tát,
Nam mô Tuệ Minh Bồ tát,
Nam mô Công Ðức Bồ tát,
Nam mô Minh Ðạt Bồ tát,
Nam mô Mật Giáo Bồ tát,
Nam mô Tu Na Bồ tát,
Nam mô Sắc Lực Bồ tát,
Nam mô Ðiều Phục Bồ tát,
Nam mô Ẩn Thân Bồ tát,
Nam mô Nhất Bồ tát, nam mô thập Bồ tát, nam mô bách Bồ tát, nam mô thiên Bồ tát, nam mô vạn Bồ tát, nam mô nhất bách vạn Bồ tát, nhị bách vạn, tam bách vạn, tứ bách vạn, ngũ bách vạn, lục bách vạn, thất bách vạn, bát bách vạn, cửu bách vạn, thiên thiên vạn chư đại Bồ tát Ma ha tát, hay trừ sinh tử tội nặng từ vô lượng kiếp đến nay.
Nam mô Nhất ức, thập ức, bách ức, thiên ức, vạn ức, nam mô vạn vạn chư đại Bồ tát Ma ha tát, hay trừ sinh tử trọng tội từ vô luợng kiếp đến nay.
Nam mô Nhất na do tha, thập na do tha, bách na do tha, thiên na do tha, vạn na do tha, nam mô vạn vạn na do tha chư đại Bồ tát Ma ha tát hay trừ sinh tử trọng tội từ vô lượng kiếp đến nay.
Nam mô nhất hằng hà sa, nam mô nhị hằng hà sa, nam mô tam hằng hà sa, nam mô tứ hằng hà sa, nam mô ngũ hằng hà sa, nam mô lục hằng hà sa, nam mô thất hằng hà sa, nam mô bát hằng hà sa, nam mô cửu hằng hà sa, nam mô thập hằng hà sa, nam mô bách hằng hà sa, nam mô bách ức vô lượng hằng hà sa chư đại Bồ tát Ma ha tát, hay trừ sinh tử trọng tội từ vô lượng kiếp đến nay.

Nếu người nào được nghe tên Ðại sĩ, các vị đại Bồ tát Ma ha tát, thì người đó trong bốn mươi ngàn kiếp không đọa địa ngục khổ, không thuộc ngục tam giới, thường thuộc giải thoát vương.
Chẳng sinh biên địa,
Chẳng sinh ác quốc,
Chẳng thụ ác thân,
Chẳng sinh tà kiến,
Chẳng sinh họ hèn,
Chẳng sinh ngoại đạo,
Thân căn đầy đủ,
Thường nghe chính pháp,
Chẳng thụ cấm giới,
Thường được đầy đủ,
Ðại thừa oai nghi,
Thường thấy Phật tính,
Cho nên nay kính lễ,
An trụ trong Phật pháp,
Ðời sau thành Phật đạo.

Khi nói xong tên các đại Bồ tát, có tám mươi tám ức thanh tịnh thiện nam, tín nữ, ngộ quả A Na Hàm, chín mươi tư ức chư Thiên được quả Tư Ðà Hàm, bảy ngàn tám ức Tỷ khưu mất tâm, lại được bản tâm, và ngộ quả A La Hán, mười ức Bồ tát, được đại Đà la ni, đời vị lai thành Phật đạo.
Kinh Ðại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật. Quyển Thượng hết